Văn Nghệ

"Không Đứng Mãi Trong Tranh," tác phẩm đầu tay của Lê Chiều Giang

Thursday, 12/08/2021 - 07:53:10

Từ lúc trở về California mùa hè 2020, bà bắt đầu làm thơ, viết văn đăng trên các trang mạng văn học tại hải ngoại. Những bài viết của bà được giới nghệ sĩ chú ý, cảm mến, đón nhận nồng nhiệt.

 

Nhà văn Lê Chiều Giang, người đang ngụ tại thị xã California City sau những năm đi tìm một cuộc sống mới ở miền Đông Canada từ ngày chồng bà, họa sĩ Nghiêu Đề (1939-1998) qua đời tại San Diego. Cũng từ lúc trở về California vào mùa hè năm 2020, bà bắt đầu làm thơ, viết văn đăng trên các trang mạng văn học tại hải ngoại. Những bài viết của bà được giới nghệ sĩ chú ý, cảm mến, đón nhận nồng nhiệt.

Những sáng tác của Lê Chiều Giang luôn ẩn hiện những nỗi buồn của một kiếp người, bâng khuâng nhìn lại những kỷ niệm trong quá khứ và thấy nó đẹp, biết nó đẹp, dù quá khứ đó đã trải qua những năm tháng thiếu thốn, khổ sở sau ngày cộng sản chiếm Sài Gòn, nơi vợ chồng bà đã có những ngày tháng thơ mộng của những con người mang tâm hồn nghệ sĩ, hay quá khứ lang bạt ở xứ California đây, những buổi rong ruổi không biết ngày mai sẽ về đâu. Tất cả đều đẹp ở tấm lòng luôn bừng sáng với tình người, và cũng buồn hiu hắt như ánh nắng chiều tà bởi những gì đã có sẽ mãi mãi không bao giờ trở lại.

Những bài viết của Lê Chiều Giang đã được gom lại trong tuyển tập “Không Đứng Mãi Trong Tranh” với tranh bìa của Nghiêu Đề, trình bày dày 164 trang, được bán với giá $16 qua mạng Amazon hoặc liên lạc tác giả qua email: tranh55@gmail.com.

Dưới đây là lời tựa của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ dành cho tác phẩm đầu tay của Lê Chiều Giang.
Nguyễn Thị Thụy Vũ viết:

“Khi biết ý Lê Chiều Giang in tác phẩm đầu tay và duy nhất này, nhiều phần cô dành tặng đến những bạn bè của Nghiêu Đề và bạn Cô, tôi cười thú vị khi hình dung ra những khuôn mặt của chúng tôi. Những Nguyễn Đình Toàn, Viên Linh, Trần Dạ Từ, Trùng Dương, Duy Trác, Ngô Thế Vinh… Bạn bè thời huy hoàng hay cả những ngày lang bạt, khốn khó, và thê thảm.

“Chúng tôi sẽ đọc Lê Chiều Giang, những dòng chữ chảy lui về quá khứ. Một quá khứ không thể nào không nhắc về, nhớ tới… Những quá khứ của thời đã “chết đi, sống lại”.

“Và còn thêm Bạn Bè Cô, sẽ đọc với chúng ta, trong tác phẩm đặc biệt này.

“Lê Chiều Giang viết mà như vẽ lại, như tả chân một cách vô cùng linh hoạt. Không hề tẩy xóa, chẳng tô vẽ thêm, nhưng rất lạ, Cô đã làm mới lại được những điều xa xưa, những tháng ngày rất cũ.

“Phòng tranh Alliance Française, với nhiều bức tranh của Hội Họa Sĩ Trẻ. Những bước chân reo cho một đổi mới của nền hội họa Miền Nam Việt Nam thời 1960.

“Hoặc như những chuyện xoay quanh căn chung cư bên dòng sông Thanh Đa, nơi mà Huỳnh Hữu Ủy đã nhắc: “Cư Xá Thanh Đa, căn nhà trước và sau 1975, lúc nào cũng rất đông bè bạn, nhà Nghiêu Đề và Chiều Giang, một nơi luôn vui cười rộn rã… Bất chấp hết mọi sự rình rập.”

“Cư Xá Thanh Đa, thời Nguyễn Đình Toàn, Chiều Giang, Trần Quang Lộc và bè bạn, ôm đàn hát trên chiếc thuyền nhỏ trong những đêm trăng. Để đến bây giờ Nguyễn Đình Toàn vẫn nhắc với tôi: “Sau 75, nếu chúng ta không cùng có nhau trên “Dòng Sông Ca Hát” của nhà Nghiêu Đề, chắc chắn cả đám đã rã rục trong khô héo…”

“Điều đặc biệt khác, tôi thích Thơ cô. Những bài thơ hiện thực đầy ẩn dụ, và bàng bạc trong thơ Lê Chiều Giang, vẫn còn nguyên cái tính chất quyết liệt, không ngờ.

“Quyết liệt như mối tình thơ mộng của Cô, với người bạn tài hoa của chúng ta. Nghiêu Đề.

“Người đã bỏ chúng ta đi từ nhiều năm trước.”

Dưới đây là trích đoạn từ hai bài viết trong sách, Nhớ Về Hội Họa Sĩ Trẻ và Tiệc Ốc Ma.


Nhớ Về Hội Họa Sĩ Trẻ

Tôi nhỏ xíu, tôi bé xíu.

Cũng chẳng có nghĩa những bóng lớn của Hội Họa Sĩ Trẻ đó đã che hết dáng tôi, cô học trò xinh xinh, chen chân, nhón gót xem tranh trong những chiều trốn lễ, bỏ nhà thờ…

Tôi mượt mà, tóc bay và mắt ướt, tôi thơ mộng như những thiếu nữ trong tranh.
Tôi nhìn thấp thoáng chút yêu kiều, thời của những Chagall, Pissarro, Cezanne, Matisse… Và ngay cả rất xa xưa, Rembrandt.

[...]

Không khí phòng triển lãm Alliance Française, tràn đầy những tinh hoa, thoát bay và ấm áp.

Khói thuốc Half & Half thơm tho, Bastos nặng nồng, hay Lucky mờ mịt. Mắt tôi bốc cay với khói mà tưởng như có thêm cả chút nồng nàn, sướt mướt.

Những bức tranh với tên gọi bàng bạc như Thơ.

Anh Trịnh Cung với “Vương Hương”; “Trăng, Chim, Hoa và Nàng” của anh Đinh Cường; Nghiêu Đề với “Vùng Thanh Thoát”; và Nguyễn Trung của “Đêm Chân Không” …

Tôi mê những bức tranh cổ điển của anh Đỗ Quang Em. Ánh sáng và bóng tối, lạnh toát hay vắng tanh, anh đã làm ấm lại trong tranh chỉ với chút ánh đèn dầu le lói.

Và tranh Cù Nguyễn đẹp như một thinh lặng, gắn bó cùng nỗi chết, đâu đó mãi tận cuối chân trời.
Sàigòn, những ngày xao xác cùng chiến tranh, những lửa đạn kinh hoàng Khe Sanh, Quảng Trị…
Đạn lạc tên bay tận những nơi xa vời để bảo vệ cho Sàigòn. Một Sàigòn không tiếng súng.

Và tôi, trốn hết học hành trường lớp. Tôi mê muội theo những hương thơm ngát của sơn dầu, tôi bàng hoàng bên những nét cọ sắc sảo. Nét cọ mà khi dào dạt cùng tranh, đã phải óng ánh hơn những nét bút rời rạc; chữ nghĩa lơ mơ chợt quên, chợt nhớ của tôi trong trường thi, lớp học.
Tôi bị cuốn theo những chiều rực rỡ La Pagode, những đêm Givral hoa đèn lấp lánh.

Và cả với những sáng khi Sàigòn còn mờ hơi sương, lúc phòng tranh chưa mở cửa. Nơi đó, có năm bảy chàng họa sĩ trong Hội Họa Sĩ Trẻ, ngồi nghi ngút cùng café bên góc hè của Continental Hotel, ngay cạnh phòng triển lãm Alliance Française.

Hình ảnh mà sau này tôi xem trong phim tài liệu về những Họa sĩ thuộc thế kỷ 19th: Claude Monet, Rodin, Degas, Renoir, Cezanne… Họ đã có những sáng vang vang bốc khói cùng café, những đêm rượu đổ đầy đường trên phố Montmartre. Họ cũng đã ngồi cùng nhau bên những câu chuyện đầy màu sắc, ấm áp và chan chứa nhiệt tình, không khác gì những vị trong Hội Họa Sĩ Trẻ.
Từ The Boulevard Montmartre tới Đại Lộ Tự Do Sàigòn.

Trăm giấc mơ đã cùng với khói thuốc mịt mù bay, họ say sưa bàn bàn, nói nói về những tác phẩm tinh khôi, nhằm sáng tạo ra nhiều nét khác biệt hẳn với những tàn dư cũ.

Những bước chân reo cho một ước mơ dài: Làm mới, làm thăng hoa thêm cho nền hội họa của Miền Nam Việt Nam.

Hội Họa Sĩ Trẻ, và phố xá, và Sàigòn của những đêm mưa… Ánh đèn đường lạnh lẽo hắt hiu, mờ mờ soi vàng những chiếc lá lao xao, rơi rụng.

[...]

Leonardo Da Vinci dặn rằng, tranh là bài thơ để đọc, và thơ là bức tranh để xem. Tôi luôn lẫn lộn giữa thơ và tranh, tiện thể, tôi còn nhầm luôn Họa sĩ với Thi sĩ.

Nghiêu Đề, chàng họa sĩ tài hoa với cả chút đa tình, số#ng lửng lơ như gió, đã thiết tha mời tôi ngồi mẫu. Và tôi tình nguyện, tôi hân hoan được làm người: Đứng mãi trong tranh.
Trong một buổi trà dư tửu hậu của Hội Họa Sĩ Trẻ, tôi rủ theo cô bạn.

Trên đường về, cô phàn nàn: “Hội Họa Sĩ Trẻ”, tên nghe hay hay, nhưng sao toàn mấy ông… già chát?
Tôi phải lan man giải thích. Năm 1962, khi các họa sĩ muốn lập hội, đã bị nhiều khó khăn, bị từ chối bởi Bộ Văn Hóa.

Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng, lúc đó là Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên, đề nghị đặt tên lại là: Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam, tên phải có thêm chữ Việt Nam, phải nghe như một “đội đá banh” của những bạn trẻ. Như thế, Bộ Thanh Niên mới có thể quyết định cho lập hội, thay vì phải qua sự can thiệp của Bộ Văn Hóa.

Và như tên gọi của một Hội đá banh đó, bỗng có những khuôn mặt không còn trẻ nữa. Lại càng không ai có sức lực nào để có thể chạy, rượt đuổi theo những trái banh trên sân cỏ.
… Những “Họa sĩ Trẻ, sao đã già, mà… lại còn già chát?”.

Với tôi, Arts sáng như trăng và long lanh không tuổi. Như khi thưởng lãm những công trình sáng tạo của Michelangelo, Lorenzo Bernini… Cái đẹp qua tượng nude của David, hoặc dáng nằm trầm luân của Teresa.
Và còn muôn ngàn những tác phẩm thời Renaissance, Baroque. Thêm cả những công trình kiến trúc, và với biết bao tượng cùng tranh… Tất cả, như đã là của muôn đời.

Arts, đã xóa hết những nếp nhăn của thời gian, và làm biến mất khoảng cách của không gian. Để cho dù tới ngàn kiếp sau, Artists vẫn luôn hiển hiện, vẫn như còn lồng lộng trước những tác phẩm, những công trình tuyệt vời, phải sống với ngàn năm của họ…

Và như thế, những nhân vật trong Hội Họa Sĩ Trẻ, lứa tuổi của 30, 40 đã sáng chói, đã như trăng như sao trong tâm tưởng tôi, cô bé thời đi học.

Qua những tác phẩm nhiều khai phá, sáng tạo tới nơi tới chốn, và với những khởi sắc đầy tài hoa… Họ đã rất trẻ, và họ sẽ còn trẻ mãi.
Nhưng lần lượt rồi họ sẽ ra đi.

Nói đùa như anh Mai Chửng và Nguyên Khai, khi dặn dò Nghiêu Đề bên giường bệnh: “Xuống đó nhớ lập lại Hội, xong xuôi rồi thằng nào xuống trước sẽ ghi danh…”

Năm 1974, anh Lê Tài Điển từ Pháp về, ngồi với anh Nghiêu Đề và tôi ở phòng tranh La Dolce Vita, phía sau khách sạn Continental Palace.

Đặc biệt của La Dolce Vita là họ rất chuyên nghiệp và kỹ lưỡng về ánh sáng cho góc độ của từng bức tranh.
Ánh sáng hài hòa đã làm nổi bật, ấm áp, và như làm đẹp thêm cho những tác phẩm của Hội Họa Sĩ Trẻ, khiến anh Lê Tài Điển muốn ngồi lại mãi, dù phòng tranh đã tới giờ đóng cửa. Anh dặn dò: “Cô đừng bao giờ quên, hạnh phúc và may mắn nhất của chúng ta là, được ngồi chung quanh những bức tranh, những tác phẩm tuyệt vời…”

[...]

Tôi café mỗi sáng, rượu đỏ mỗi tối bên những tranh của Đỗ Quang Em, Nguyễn Trung, Đinh Cường, Nguyễn Lâm, Ngy Cao Uyên, Nguyễn Phước… Những xanh mượt mà. Những vàng ánh xôn xao. Những đỏ thắm như mặt trời, trắng xóa như sẽ chẳng còn thấy gì; hay những màu âm u lạnh toát trong tranh Nghiêu Đề…

Bắt chước La Dolce Vita, tôi thắp sáng những ánh đèn, tôi tạo ra một không gian ấm áp và bừng lửa. Những ánh đèn rực rỡ đôi khi, đã soi xuyên qua bóng đêm tối tăm, lạnh lẽo.

Ánh sáng trầm như nhạc, sắc như gươm đã như ngàn tiếng hét hò trong đời sống tôi: Lặng im.

Ánh sáng như giục giã, như gọi mời, để lắm khi dù đêm đã sắp tàn, những nhân vật vẫn lặng lẽ, vẫn mơ hồ bước ra từ tranh…

Họ điềm đạm ngồi uống với tôi, nhắc lại cùng tôi những điều rất xa xôi, từ trăm năm cũ.

Tiệc Ốc Ma

“Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Một ngọn đèn tóc tang, dửng dưng…”
(Nhạc Nguyễn Đình Toàn)

Phim “Xa Lộ Không Đèn,” có từ năm 1972. Dù chưa bao giờ xem, nhưng tối nay, tôi lại chợt nghĩ đến.
Ánh đèn của những chiếc xe máy, vòng vèo lướt ngang, vội vã. Chút ánh sáng chớp tắt lập lòe đã không đủ cho chúng tôi nhìn rõ mặt nhau. Nhưng sao tôi lại hình dung ra cuốn phim ngày trước, với những hình ảnh màu mè, những tấm quảng cáo đã được dán khắp nơi, ở mọi hè phố của Sàigòn, những năm xưa…

Sau 1975, cả nước sống triền miên trong những đêm không đèn. Và đã chẳng có ai cần phải ra tận xa lộ mới thấy được cảnh phim đầy gay cấn trong “Xa lộ không đèn” của Hoàng Anh Tuấn.

Tối nay, anh chị Nguyễn Đình Toàn và chúng tôi, đang đứng ngay chân cầu xa lộ âm u.
Sàigòn của chúng tôi. Sàigòn với những đêm không đèn đóm…

Anh Nghiêu Đề quăng tàn thuốc xuống lề đường đọng nước, tiếng nói Anh lúc nào cũng hiền hòa:

- Vụ tụi nó mời mình vô cái Hội Văn Nghệ, Văn Hóa gì gì đó, Ông thấy sao?

- Tôi đã nói với chúng nó một câu trừ hao rồi: “Hội nào mấy ông mời, tụi tôi cũng vô hết, nhưng để cho chắc ăn, tôi muốn biết, nếu khi nào cần ra khỏi mấy cái Hội đó, thì mấy ông có cho chúng tôi ra hay không?”. Nghĩa là, vô rồi thì có còn ra được nữa hay không?

Chị Thu Hồng cười vang với lối nói cà khịa của Nguyễn Đình Toàn, ông chồng đanh đá.
Trước khi đạp xe về hướng Làng Báo Chí, anh Toàn dặn dò:

- Thôi, thân thằng nào thằng nấy lo…

Nhưng chúng tôi cả đám đã chẳng ai cần “lo lắng” gì. Toàn những tụ họp và rong chơi.

Một sáng chủ nhật, khi tôi đang đứng xếp hàng chờ mua chút thực phẩm Hợp Tác Xã. Chị Thụy Vũ và chị Thu Hồng tới tìm, tay chị Vũ cầm một cục gạch. Chị thành thạo bỏ xuống chân tôi, như một thế chỗ.

Tôi gửi gắm cục gạch để người hàng xóm nhích lên giùm. Tôi đoán, chắc cả tiếng nữa mình mới cần trở lại.
Ngồi chờ chúng tôi ở Café Cây Bông Gòn ngay cầu Kinh Thanh Đa, là anh Nguyễn Đình Toàn, Nghiêu Đề và Dương Thụ, người nhạc sĩ bỏ Hà Nội vô Sàigòn sớm nhất.

Xong Café với đủ thứ chuyện buồn vui, khi thầm thì, lúc to nhỏ… Tôi mời bạn bè về nhà dùng bữa cơm trưa với những thứ vừa mua được từ cửa hàng Hợp Tác Xã.

Thiên hạ cứ hay bàn về “hạnh phúc”, hai chữ vừa đắt đỏ, vừa khó khăn, lại khó tìm. Nhưng sau 1975, chợt nhiên mà “hạnh phúc” rất dễ nhìn thấy: Đôi khi chỉ là vì dưới cái nắng như điên của Sàigòn, bỗng có ai đó đang xếp hàng bỏ đi, nhường cho mình chỗ của họ; hoặc ráng kỳ kèo thêm trái ớt, mà đã không bị cô bán hàng Hợp Tác Xã đá thúng đụng nia, lườm lườm, nguýt nguýt.

“Niềm vui”, cũng chẳng ai cần phải lặn lội kiếm tìm xa xôi. Nhiều khi nó cũng rất đơn sơ, rất tội nghiệp. Hân hoan vui sướng chỉ vì mua được con cá bự hơn, hay những kí-lô gạo không bị nhiều sạn cát, đầy meo mốc…
Chị Hồng còn dặn dò trong lo lắng: “Cô nhớ đừng cho bột ngọt vô cá thịt trước nhé, chất ngọt của nó sẽ biến mất…” Chút quan tâm của chị, như trải ra sự đắn đo, dè sẻn của mọi chúng tôi. Cứ như cuộc đời chẳng có gì cần phải nhớ đến, cả nước chỉ còn biết quanh quẩn bên miếng hành hay những bó rau, loại rau có chút màu úa vàng, heo héo.

Và tôi đã chẳng bao giờ quên hình ảnh chị Thụy Vũ hôm đó, đặt lên bàn ăn một dĩa cá kho, mà chị đã phải đổ thêm nước vào như một tô canh, vì sợ thiếu…

Chúng tôi sống gắn bó, dễ thương trong thời đói rách. Dù biết rằng chẳng ai đã cam tâm, nhưng phải cố gắng đào bới, tìm cho ra những thú vị trong mọi cảnh đời trầm luân, gay gắt… Anh Toàn hay ghé Thanh Đa kể những chuyện cười dí dỏm, nhưng với giọng đầy chua chát, đắng cay:

“Bác Toàn ngồi chờ Bố cháu về nhé, Bác có muốn dùng trái cây không?”

Nghe tới “trái cây”, mừng vì thèm đã từ lâu, vừa “ừ” xong thì thấy nó đặt trên bàn một rổ đầy… những trái cóc xanh!
[...]

Viết bình luận đầu tiên

MỚI CẬP NHẬT