Điện Ảnh, Nghệ Thuật

Bay đêm

Friday, 03/01/2020 - 07:02:13

Có những người luôn sống về đêm, nhưng không phải mộng du, cũng như có những người có thể đi xuyên tường, hoặc bay lên, mà không phải là thần thánh.

(damau.org)


Truyện LÊ SÔNG VĂN

Có những người luôn sống về đêm, nhưng không phải mộng du, cũng như có những người có thể đi xuyên tường, hoặc bay lên, mà không phải là thần thánh.
Tôi sinh ra với cả hai khả năng này.
Hồi còn bé, tôi học được điều này từ phim ảnh, truyện khoa học giả tưởng, óc tưởng tượng, và tôi đã một mực tin vào sự mầu nhiệm này, một niềm tin không cần bằng chứng, tuyệt đối như niềm tin của những kẻ suốt đời chỉ biết phụng sự Chúa, chờ ngày lên thiên đường.

Tôi không phụng sự ai, tôi phụng sự giấc mơ của mình, và tự tìm cách bay lên.
Năm mười tuổi, một buổi đêm thức giấc, tôi bước ra vườn, cảm thấy lưng mình nứt ra một đường xẻ ở giữa, chạy dọc gần xuống eo, rồi từ đó mọc ra một đôi cánh. Vậy là tôi trở thành người bay. Ðây là một bí mật sẽ theo tôi tận cõi chết. Tôi sung sướng bay đậu trên một tàng cây trước cửa phòng ba mẹ, nhìn họ ngủ say, rồi xuyên tường đi vào phòng của họ, đọc những cuốn sách quý họ giữ gìn cẩn thận trên giá sách. Lần đầu tiên ngắm nhìn ba mẹ nằm cạnh nhau, chìm sâu vào giấc ngủ, tôi đã tự hỏi, “Đây là ba mẹ mình đấy ư.” Thì ra, có những thứ rất xa lạ vào ban ngày lại trở nên thân thiết sáng rõ vào ban đêm, và ngược lại. Ngắm nhìn ba mẹ mình đang say ngủ, cảm giác thật kỳ lạ, gần như chúng tôi không hề quen biết nhau, còn những cuốn sách nằm trên giá cao, tôi chưa bao giờ được phép sờ vào chúng, nhưng ban đêm lại nhận ra nhau thật dễ dàng như đã có sẵn một cuộc hẹn.

Từ đấy trở đi, cuộc đời tôi gần như thu hết về đêm. Như người bị chứng nghiện rượu, buổi sáng vật vờ, mệt mỏi, đến lúc chiều chạng vạng, thành phố lên đèn, tôi mới tỉnh hẳn người. Càng ngày tôi càng mất dần khả năng tham gia vào đời sống ban ngày quanh tôi. Như một bóng ma, hăng hái nhất lúc trăng lên cao, tôi giam mình dai dẳng vào bóng đêm. Ðêm nở ra nhiều mùi hương khác biệt với ngày. Ở cái ban công của mình, tôi nhìn xuống mảnh vườn nhỏ, và ngửi được nhiều thứ mùi của đêm tỏa ra từ đấy.

Buổi sáng, mẹ đi chợ, mang về thật nhiều chậu hoa kiểng, trồng thành một con đường nhỏ phủ hoa dẫn vào cổng nhà, chuẩn bị cho đám rước tôi. Những chậu hoa này có những cánh mỏng tỏa một mùi hương hăng hăng vào đêm tối. Cái cổng này rồi cũng sẽ được kết rất nhiều hoa, và chú rể sẽ bước qua cái vòm hoa lộng lẫy ấy để đón tôi theo. Tôi hình dung ra gia đình hai họ thật rõ ràng. Sự mãn nguyện hài lòng rạng rỡ trên từng khuôn mặt. Mẹ búi tóc cao, đứng thẳng người, một tay vòng qua tay ba, tư thế quý phái nhất mẹ có thể tạo được, và miệng nở một nụ cười vừa phải, mắt tràn đầy âu yếm chen lẫn với niềm hãnh diện không có chỗ cất giấu, đặt lên tôi và chú rể. Tôi sẽ mặc một cái áo dài do chính tay anh đưa đi chọn vải. Ðể chắc ăn, lúc nào anh cũng chọn một trong thứ đắt tiền nhất, vì anh vốn không tin vào thẩm mỹ của mình, nên sẽ dựa vào giá hàng. Tiền nào của nấy. Anh vẫn hay nói vậy. Những lúc như thế, tôi hay tự hỏi anh dựa vào điều gì để xin cưới tôi, hay chính là cái nhan sắc vừa phải, đủ để quyến rũ anh, và không quá trội để anh phải lo lắng, cộng thêm cái vẻ thờ ơ với đời sống xã hội quanh mình, khiến anh yên tâm rằng nhiều phần tôi sẽ thành một người vợ hiền lành, nội trợ.

Tôi lớn lên ở một xứ sở chỉ có hai mùa: mưa và nắng. Mùi vị ám ảnh và kích thích tôi nhiều nhất là thứ mùi vị xa xôi của mùa Hạ. Dưới cái nắng thiêu đốt, đầu óc lúc nào cũng như đang say, đang choáng váng, như có cái gì vừa chạm vào tiềm thức. Còn mưa, như một liều thuốc chữa bệnh tâm thần, kéo ra khỏi chứng ám ảnh kỳ quặc gây ra bởi nắng, mưa dội sạch tất cả khiến lòng hồi tỉnh. Khi tiếng mưa rơi đều trên mái tôn, cảm giác như đang ngồi thiền, không muốn làm một điều gì khác. Tôi không hiểu những người sống cùng dưới cái nắng cái mưa dữ dội ở xứ tôi, có cảm giác như tôi không, có ai sinh bệnh như tôi không, và có trở thành một bóng ma trong đêm tối như tôi không, nhưng tôi tin rằng tôi không thể khác được. Thời tiết và những thứ mùi vị ấy đã nuôi nấng nên tôi.

Còn anh, lớn lên ở tận một xứ Bắc Âu lạnh cóng, mùa đông dài gần hết năm, mùa hè không kịp tắm nắng, chưa kịp nghỉ một ngày để nướng thịt ngoài vườn thì đã lại sang đông. Anh chẳng làm gì nhiều ngoài đi học, đi làm thêm, giữ gìn nhà cửa gọn gàng, và cuối tuần đi nhà thờ. Bao nhiêu tiền kiếm được ngoài tôi và Chúa ra, anh chẳng biết xài cho ai nữa. Tôi cũng chẳng thiết tha gì với chuyện xài tiền, bởi tôi chẳng có thời gian. Tất cả sức lực và thời gian của tôi tập trung vào bóng đêm, vào những chuyến bay, những vụ đi xuyên tường, và một trong những vụ chiếm nhiều thời giờ nhất là vụ ngoại tình lăng nhăng với ông ta.

Ông ta, hơn gấp hai lần số tuổi của tôi, vợ con đầy đủ, công việc vững chắc và khá có địa vị trong xã hội. Ba mẹ tôi cũng quen biết ông ta, mỗi khi nhắc đến ông, mẹ tôi dùng một giọng kính trọng, vì ông là người đã làm rạng danh người Việt tị nạn trên xứ sở này. Ông là một trong những giáo sư tên tuổi và quan trọng tại một trường Ðại Học nổi tiếng ở một đất nước văn minh, ông lại sống gương mẫu đi đâu cũng đi với vợ. Vợ ông là một người đàn bà ngoài chồng ra thì chẳng còn biết gì khác trên đời này, nghèo nàn hơn cả người chồng chưa cưới của tôi, vì dù sao, ngoài tôi ra anh ta cũng còn có Chúa để thờ phụng. Tôi nhận ra ông tại một buổi tiệc. Giữa chốn đông người, tôi thấy ông bay là đà trên mặt đất. Tôi thường bay trên cao, bay một mạch không bao giờ ngoái cổ nhìn lại, nên thấy lạ bởi cái kiểu vừa bay vừa chạm vào mặt đất như thế. Tôi đến bên cạnh ông, chúng tôi dễ dàng nhận ra nhau vì cùng là loài có cánh, và chúng tôi mừng rỡ yêu nhau. Ðám đông trở thành một cái phông cho cuộc tình bí mật vụng trộm của chúng tôi. Cái phông càng rộng, chúng tôi càng thu nhỏ lại, nhưng nếu mất cái đám đông ấy đi, thì chúng tôi không biết thu về đâu, sẽ đứng trơ trọi chốn không người và lúc ấy, chúng tôi sẽ đối diện nhau.

Lần đầu tiên, tôi thấy một người đàn ông với dáng hình chân thật nhất, khiến tôi cảm động.
Tôi nói, “Thưa ông, tôi có một món quà cho ông.”
Ông ta xòe tay, “Thưa cô, tôi rất mong nhận món quà ấy.”
Tôi đưa mắt nhìn lên bầu trời. Mặt trăng. Trên đấy em trải sẵn mùng mền và cất giấu những điều bí mật. Bay lên đấy, em sẽ tặng ông tất cả.

Nếu nói bầu trời là thứ lấp lánh nhất cũng không đúng, nhưng nó có vẻ là thứ lấp lánh không nguôi trong đêm tối, kể cả những đêm không sao, mây phủ kín. Tôi đã từng băn khoăn đến thứ gì, ngoài gió, có thể xé rách bầu trời? Và tôi nghĩ đến nỗi thất vọng. Nỗi thất vọng khi nhận ra một người, hay một điều gì. Nỗi thất vọng khi bị bỏ rơi. Nỗi thất vọng sau một chuyến bay, sau cơn đau đớn… Phải, nỗi thất vọng có khả năng xé rách bầu trời. Tôi nghĩ vậy. Thế nhưng, mỗi đêm, tôi đều bay về cái phía sâu thẳm ấy, tìm một vì sao không bao giờ tắt, như đi tìm lá số tử vi. Thuở mới biết bay, tôi luôn lén lút bay. Ngồi trong lớp học, tôi bay lướt qua bảng đen, nếu thầy cô không để ý, tôi bay ra ngoài cửa sổ, đậu trên hàng Phượng đỏ rực, ngó xuống sân trường và lắng nghe tiếng đọc bài vọng ra từ những lớp học. Mùa Hạ, tôi bay thảnh thơi hơn. Thành phố tôi ở lúc nhúc những người và tiếng động. Len qua bọn họ không phải dễ. Tôi hay bị giật mình, rớt xuống, và cảm giác bơ vơ lạc lõng như người từ một hành tinh khác rớt xuống vậy.

Tôi có một cái thói rất trẻ con là thích cất giữ những vật lỉnh kỉnh vô giá trị. Là con gái lớn, tôi không thích đeo nữ trang đắt tiền sang trọng, mà lại yêu thích những chiếc nhẫn rớt ra từ những cái kẹo nơi các máy công cộng. Tôi sẽ vui thích biết mấy nếu từ trong cái kẹo tôi mua rớt ra một chiếc nhẫn vừa tay tôi. Tôi đeo chiếc nhẫn ấy hầu như mỗi ngày. Buổi tối, khi đứng ở ban công để tìm một hướng bay mới, tôi hay cạ chiếc nhẫn vào cằm mình, bặm chặt môi, mắt tôi tập trung hết sức vào một điểm nào đó ở chân trời. Chồng sắp cưới của tôi đã mượn chiếc nhẫn tôi yêu thích nhất để lấy số đo, đặt cho tôi một chiếc nhẫn cưới. Chiếc nhẫn sẽ được đúc bằng vàng, tròn như ánh trăng rằm, đeo vào ngón áp út.

Tôi rất hay nhìn lên mặt trăng. Từ lúc trăng còn non đến lúc trăng đầy đặn. Buổi chiều, khi mảnh trăng còn mờ nhạt, tôi háo hức nghĩ đến nó lúc chín mùi vào đêm, khi tôi đã thảnh thơi xếp lại công việc ban ngày, đứng nơi ban công phòng mình, nhìn lên nó. Nó là thứ duy nhất biết rõ chứng bệnh hoang tưởng của tôi vào mỗi buổi đêm. Nếu tôi không nhìn ngắm nó từ bé đến lớn, một khoảng thời gian lâu lắt và thủy chung như thế, gởi gấm lên nó nhiều bí mật, thì nó có sáng vằng vặc được thế không? Làm sao mà biết được lòng dạ của nó khi tròn khi khuyết. Cái ánh sáng kia cũng tựa như tâm hồn tôi, lẩn khuất vào ban ngày, và rực lên khi đêm xuống. Có cái gì rất gian dối ở cái thứ ánh sáng ấy. Nó hấp dẫn hơn ánh sáng của mặt trời, sáng chói chan và không có khả năng giấu đi một bí mật nào. Khi tất cả bí mật bị phanh phui, thì chủ nhân của nó sẽ chết, cũng như tôi có thể bị chết bỏng dưới ánh mặt trời nếu không hạ cánh được sau những chuyến bay đêm.

Từ ngày biết bay, tôi bay liên tục không ngừng. Khi đêm buông xuống, thành phố lên đèn, và những mảnh đời hiện lên từng khung cửa sổ, tôi cũng ngồi nơi khung cửa sổ của mình, với tư thế chuẩn bị cất cánh. Gió mơn man cổ tôi. Bóng cây vuốt ve cảnh trí trước mắt: mái nhà, cột điện, xe cộ, và người… Trong những khung cửa sổ tôi bay ngang, nhìn những mảnh đời trong ấy, tôi cũng đã nhiều lần nhìn thấy người tình bí mật của tôi nơi khung cửa, cạnh vợ con. Ông ngồi đọc báo. Vợ con quây quần. Tôi bay qua cửa sổ, gõ nhẹ lên đấy, ông tưởng tiếng gió nên đứng dậy cài cửa lại. Tôi không nhìn thấy người yêu của mình nữa và tôi tiếp tục bay về phía mặt trăng, nhưng những chuyến bay như thế tôi hay đâm vào sương mù và rơi vào bóng tối.
Chẳng bao lâu nữa, khi chiếc nhẫn được đúc xong, thì sẽ là ngày cưới tôi. Anh là người sẽ lo lắng cho tôi suốt đời. Anh sẽ mãi mãi chung thủy với tôi. Ðiều này thì tôi có thể tin được, vì anh không có khả năng ngoại tình. Anh một mực trung thành với Chúa, và khi Chúa đã kết hợp chúng tôi với nhau, anh sẽ một mực trung thành với tôi. Hạnh phúc thật rõ ràng và giản dị. Tôi đang nhìn thấy nó, sờ sờ trước mặt, như cái vòng đo của chiếc nhẫn cưới, chính xác đến từng mi-li-mét. Căn nhà anh ở trên đồi cao, là một căn nhà rất đẹp và rộng, có thể sinh thật nhiều con cái ở đấy, có thể đeo chiếc nhẫn tròn như mặt trăng lấp lánh ánh vàng quây quần bên anh và con. Nếu một ngày nào người đàn ông biết bay kia có thể bay cao hơn, ngang qua khung cửa sổ nhà tôi, sẽ thấy tôi ngồi cạnh anh đang đọc báo, con cái xung quanh. Ở đấy, tôi là nhân vật chính trong một bức tranh do Chúa đã vẽ nên. Tôi đại diện cho những kẻ sẽ lên thiên đường.

Muốn biết việc cưới xin đang diễn tiến đến đâu rất dễ. Tôi đi xuyên qua tường. Phòng ba mẹ có tiếng rù rì bàn bạc chọn cho tôi một ngày lành kết hôn. Trước sau gì một người con gái cũng phải kết hôn, tôi không phản đối chuyện này, nhưng tôi không biết làm sao để ngừng bay. Ðêm đêm, tôi đi xuyên tường từ phòng này sang phòng kia, nhà này sang nhà nọ, lắng nghe cuộc đời và nhìn ngắm nó.
Ðã đến lúc phải thay đổi. Ðã đến lúc phải làm một cái gì đấy, một cái gì để khác đi, không còn đường quay về chỗ ban đầu, thì tôi sẽ biết rõ hơn một chút về bản thân, về cuộc đời, về đường bay kế tiếp… Lấy chồng, ngừng bay, và ngừng gặp gỡ người đàn ông biết bay kia mãi mãi, chỉ nghĩ đến đấy thôi tôi đã cảm thấy chới với. Tôi có đủ khả năng chặt đôi cánh của mình không? Nhưng còn người đàn ông kia? Ông ta vẫn còn cánh thì sao? Tôi rụng cánh và ông ta còn cánh, cả hai chúng tôi sẽ trở thành người cô độc nhất, mà giữ lại đôi cánh để cùng là giống có cánh với ông ta, mãi mãi biết bay, tôi vẫn sẽ là người cô độc. Vả chăng, hủy bỏ cuộc hôn nhân thì cuộc tình kia đối với riêng tôi đâu còn là bí mật. Ðặt nó dưới ánh sáng mặt trời liệu có bị thiêu đốt? Nếu chẳng còn nó nữa, thì người chồng sắp cưới của tôi và đức Chúa của anh có còn là nơi mẫu mực yên bình?

Ngày lành tháng tốt càng đến gần, tôi càng đi loanh quanh nhiều hơn về đêm, không còn cả một giấc ngủ ngắn, tôi xuyên qua cả chục bức tường từ nhà mình cho đến nhà hàng xóm và rồi cắm cổ bay vút ra ngoài cửa sổ, đầu óc không sao có thể suy nghĩ mạch lạc được.
Tôi lại rơi vào bóng đêm.
Những đêm như thế, tôi là con chim duy nhất cô độc trên bầu trời chỉ biết cách bay mà không làm sao học được cách đáp.

Ngồi bệt bên vệ đường, đôi cánh trầy xước, cảm thấy tiếc nuối vô cùng một điều không rõ rệt, tôi thấy bóng mình in đậm trên mặt đất. Lòng đường và lòng đêm mới chân thật làm sao. Trăng trên cao nhìn tôi, ánh sáng vẫn lung linh bí mật. Ðêm có cái lạnh buốt của nó dù ngay giữa mùa Hạ, dù mùi nhựa đường vẫn còn hắt lên hơi nóng sót lại của ngày. Cái lạnh buốt đâm vào tim những kẻ thức trắng như tôi, ngọt như một nhát kiếm, tách trái tim làm đôi. Tôi nhìn xuống ngực mình nhưng không thấy máu, chỉ thấy một thứ tình yêu trộn lẫn với sự phản bội rỉ ra từ đấy, cùng tiếng nỉ non của côn trùng, từ từ phủ kín người tôi. Tôi học thêm được một điều mới mẻ: chúng là những thứ không thể tách bạch được. Chúng là trăng, là sao, là đêm, là tôi, là máu từ quả tim mãi mãi bị giam trong lồng ngực.
(Nguồn Damau.org)

 

Viết bình luận đầu tiên

MỚI CẬP NHẬT