Phóng Sự

Buôn người- hình thức nô lệ mới thời hiện đại (kỳ 9)

Sunday, 07/02/2016 - 08:32:24

“Năm 2009, Liên Minh CAMSA mở rộng việc tiếp cận với công nhân Việt ở Mã Lai và qua đó đã truy tìm ra được hàng chục vụ buôn người lớn, nhỏ. Từ đó, Liên Minh CAMSA đã lọc ra một số ít trường hợp mạnh để tiếp tục thúc đẩy Mã Lai cải thiện khung luật chống buôn người.

Bài BĂNG HUYỀN

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng kể về những giải pháp chống buôn người của BPSOS và Liên Minh CAMSA (Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới Ở Á Châu)

Vào năm 1999, lúc bấy giờ tại Hoa Kỳ vẫn chưa chính thức có Đạo Luật Chống Buôn Người, vì vậy vẫn chưa có luật bảo vệ cho những nạn nhân buôn người, nhưng thời gian này đã xảy ra vụ nô lệ lao động lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ bị chính quyền liên bang truy tố, với nạn nhân là 250 người Việt và 30 người Hoa bị buôn sang đảo American Samoa (là lãnh thổ hải ngoại của Hoa Kỳ), làm việc cho hãng may Daewoosa do ông Kil Soo Lee người Đại Hàn là chủ thuê mướn.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng tại tòa soạn nhật báo Viễn Đông. (Băng Huyền/ Viễn Đông)



Hầu hết những công nhân trong số 250 người Việt là phụ nữ ở thôn quê miền Bắc, được Công Ty Du Lịch 12 và công ty IMS đưa sang làm việc trong công ty Daewoosa của ông chủ người Nam Hàn Kil Soo Lee.

Những nạn nhân này bị buộc phải làm việc vất vả, không được trả lương, còn bị ông chủ Kil Soo Lee ngược đãi, một số công nhân này đã tổ chức biểu tình và đình công. Hậu quả là nhiều người trong số họ bị chủ bỏ đói, bị đốc công người bản xứ hà hiếp đánh đập.

Vào thời gian khi sự việc này xảy ra, BPSOS (Boat People SOS-Ủy ban Cứu Người vượt biển có trụ sở chính tại Falls Church, Virginia, do tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng làm chủ tịch kiêm giám đốc điều hành) đã can thiệp kịp thời, thông báo đến chính phủ Hoa Kỳ để giải cứu các nạn nhân, ông Kil Soo Lee người Đại Hàn là chủ thuê mướn đã bị kết án 40 năm tù và đang thọ án tại Honolulu, Hawaii, và Tòa Liên Bang ở American Samoa đã phán quyết là hai công ty xuất khẩu lao động quốc doanh Việt Nam (Công Ty Du Lịch 12 và công ty IMS) và ông Lee phải bồi thường cho các nạn nhân $3.5 triệu Mỹ Kim (nhưng nếu tính cả tiền lời trong bao nhiêu năm qua, số tiền hiện nay phải là $10 triệu). Nhưng theo tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng cho biết thì đến nay các nạn nhân vẫn chưa hề nhận được tiền đền bù.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng kể: “Lúc ấy vì Hoa Kỳ chưa có luật về phòng chống buôn người thành ra chúng tôi không làm được gì nhiều hơn là thu thập thông tin. Chúng tôi đã hợp tác với Cơ Quan Đặc Trách An Toàn Và Sức Khỏe Trong Lao Động, tức OSHA, viện cớ là có những vi phạm về vấn đề tiêu chuẩn nơi làm việc và an toàn sức khỏe để lấy thông tin. Cùng thời điểm đó thì dân biểu Christopher Smith đang soạn thảo dự luật bảo vệ nạn nhân buôn người.

“Dân biểu Christopher Smith biết về tình trạng ở American Samoa nên ông đã đưa vào dự luật một câu nói rằng luật này sẽ áp dụng tại đảo American Samoa là lãnh thổ của Hoa Kỳ. Bình thường các luật của Liên Bang Hoa Kỳ không áp dụng ở những vùng lãnh thổ bảo hộ của Hoa Kỳ, nhưng riêng luật này đã được ghi chú rất rõ ràng và cũng nhờ vậy mà ngay khi Luật Bảo Vệ Nạn Nhân Buôn Người được quốc hội thông qua cuối năm 2000 thì lập tức chúng tôi phối hợp với chính quyền liên bang, các cơ quan hữu trách để giải cứu cho nạn nhân, đưa họ cấp tốc sang bên Hawai.”

Tiến sĩ Thắng giải thích, “Sở dĩ chúng tôi quyết định can thiệp vào trường hợp buôn người này vì đây là trường hợp đầu tiên Việt Nam xuất cảng lao động sang Hoa Kỳ. Nếu không chặn ngay thì sẽ ồ ạt những vấn đề buôn người từ trong nước sang Hoa Kỳ thì lúc ấy có thể sẽ không ai có khả năng giải cứu được hết tất cả những nạn nhân. Đáng tiếc là lúc ấy, khoảng 50 người đã bị công ty môi giới đưa về Việt Nam. Sau này khoảng 30 trong số 50 người trở về đó đã có cơ hội quay lại Hoa Kỳ để đòi công lý.”

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng cho biết BPSOS còn giúp cho các nạn nhân người Việt của vụ án buôn lao động kể trên được cho cư trú hợp pháp tại Hoa Kỳ, bằng cách xin cho họ chiếu khán T (T-Visa- là một chiếu kháng rất mới lúc bấy giờ) dành cho những nạn nhân của nạn buôn người. Khi đã có T-Visa, mất một thời gian nữa họ có thể xin thẻ xanh. Sau đó chờ thêm 5 năm nữa mới được xin nhập tịch và sau khi họ thi đậu quốc tịch đã bảo lãnh thân nhân chồng con từ Việt Nam sang Hoa Kỳ để đoàn tụ gia đình.

Giải pháp chống buôn người của BPSOS và CAMSA

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng nói, “Chống buôn người là một lĩnh vực ưu tiên đấu tranh của tổ chức BPSOS. Qua các trường hợp buôn lao động từ trong nước, cho thấy sự tham dự của chính quyền Việt Nam trong nhiều hình thức qua đường dây buôn lao động. Có thể nói buôn người là vấn nạn có hệ thống, đòi hỏi giải pháp hệ thống. Bằng không thì chỉ là đối phó với hậu quả trong khi vấn đề vẫn còn nguyên đó hoặc ngày càng trầm trọng thêm.

“Giải pháp gồm 3 bước, được thực hiện theo trình tự như sau. Đầu tiên là ảnh hưởng chính sách: Đây là bước căn bản, tạo nền móng cần thiết để bài trừ nạn buôn người. Khi thực hiện, cần chọn lọc một số trường hợp buôn người mà không ai có thể phủ nhận để qua đó vận động các chính quyền liên hệ ban hành luật chống buôn người và chấp hành nghiêm chỉnh luật này. Số nhỏ những trường hợp như vậy cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và dùng để truy từ ngọn đến tận gốc của đường dây buôn người, nhận diện các yếu tố cần thiết và đủ trong luật pháp, và thử nghiệm việc thi hành luật.

“Bước kế tiếp phải thông tin để các nạn nhân và những ai dễ trở thành nạn nhân hiểu cách vận dụng luật để tự đề phòng và bảo vệ quyền lợi. Bước này áp dụng cho những người ở trong nước trước khi ký hợp đồng đi lao động để tránh bị lợi dụng hay lường gạt, họ cần hiểu rõ về luật của quốc gia gốc, và cho những công nhân đang lao động ở ngoài nước để tự bảo vệ khi quyền lợi bị vi phạm-họ cần hiểu về luật của quốc gia sở tại.

“Bước thứ ba là phát huy năng lực của xã hội dân sự: Vai trò của xã hội dân sự là trám những kẽ hở của bộ máy luật pháp cũng như tạo cầu nối giữa những cá nhân không thể tự giúp để nhận sự trợ giúp cần thiết. Khi đủ năng lực, các tổ chức xã hội dân sự còn có thể đóng vai trò theo dõi việc chấp hành luật và vận động chính sách. Việc phát huy năng lực cho các tổ chức xã hội dân sự sẽ mất thời gian, và do đó được thực hiện sau bước “thông tin quần chúng”.

“Và chu kỳ ba bước này tái diễn để dần dà hoàn thiện khung luật chống buôn người và việc chấp pháp, giảm dần số lượng nạn nhân, và tiêu trừ các đường dây buôn người.”

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng giải thích thêm: “Kế hoạch trên đã được BPSOS thực hiện ở Hoa Kỳ từ năm 1999 qua vụ giải cứu cho trên 250 nạn nhân Việt và Hoa ở American Samoa, BPSOS đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan công lực liên bang để thử nghiệm luật chống buôn người ban hành cuối năm 2000, thông tin và giáo dục quần chúng ở tầm vóc quốc gia, và huấn luyện cho hàng trăm tổ chức và hội đoàn trên toàn quốc về phòng, chống buôn người. Nay phong trào chống buôn người đã nỡ rộ ở khắp Hoa Kỳ. Nhiều chính quyền tiểu bang và địa phương đã ban hành luật riêng để bổ sung và siết chặt hơn luật liên bang.

“Vào Năm 2005, BPSOS bắt đầu hướng đến tình trạng buôn lao động từ Việt Nam đến nhiều nơi trên thế giới. Địa điểm đầu tiên được chú ý đến là Mã Lai, nơi tập trung đông đảo nhất những người Việt lao động ở ngoài nước. Cùng với nhiều tổ chức địa phương, BPSOS vận động sự chú ý và quan tâm của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đến tình trạng buôn lao động ở Mã Lai. Năm 2007 Mã Lai bị Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ xếp vào hạng 3 và đứng trước nguy cơ bị chế tài. Cuối năm 2007, chính phủ Mã Lai ban hành luật chống buôn người.

“Riêng tại Đài Loan thì trong năm 2005, BPSOS áp dụng kế hoạch 3 bước cho Đài Loan, nơi có số lượng người Việt lao động đông thứ nhì, sau Mã Lai. Tuy nhiên, bước vận động mang tính cách khác với bước vận động ở Mã Lai: thay vì đối đầu, BPSOS hỗ trợ cho chính phủ Đài Loan phát huy công cuộc chống buôn người để tránh bị rơi xuống hạng 3. Hàng năm chính phủ Đài Loan và BPSOS đều trao đổi phái đoàn thăm viếng và hợp tác.

“Đầu năm 2008, BPSOS cùng với một số tổ chức nhân quyền quốc tế và địa phương thành lập Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới Ở Á Châu (CAMSA) nhằm theo vận động việc chấp pháp nghiêm chỉnh luật này.
“Đầu năm 2009 chính phủ Đài Loan ban hành luật phòng, chống buôn người. Liên Minh CAMSA vừa tiếp tục hỗ trợ chính phủ Đài Loan trong việc triển khai luật, vừa vận động một số tổ chức dân sự của Đài Loan tập trung vào tình trạng buôn lao động.

“Năm 2009, Liên Minh CAMSA mở rộng việc tiếp cận với công nhân Việt ở Mã Lai và qua đó đã truy tìm ra được hàng chục vụ buôn người lớn, nhỏ. Từ đó, Liên Minh CAMSA đã lọc ra một số ít trường hợp mạnh để tiếp tục thúc đẩy Mã Lai cải thiện khung luật chống buôn người.

“Cũng trong năm 2009 chính phủ Đài Loan ban hành luật phòng, chống buôn người. Liên Minh CAMSA vừa tiếp tục hỗ trợ chính phủ Đài Loan trong việc triển khai luật, vừa vận động một số tổ chức dân sự của Đài Loan tập trung vào tình trạng buôn lao động.

“Năm 2010, Liên Minh CAMSA phối hợp với một tổ chức nghiệp đoàn quốc gia của Mã Lai để huấn luyện cho các công nhân Việt về luật lao động và luật chống buôn người. Đồng thời, Liên Minh CAMSA hỗ trợ cho nhiều chục tổ chức Mã Lai về vận động chính sách, can thiệp hồ sơ, và nối kết với các chính phủ Hoa Kỳ, Đức, Tây Ban Nha, Thái Lan, v.v. Nỗ lực vận động của các tổ chức này gần đây đạt thành quả đáng kể: Bang Selangor ban hành luật chống buôn người, nhằm trám một số lỗ hổng trong luật quốc gia.

“Đầu năm 2010, Liên Minh CAMSA thành lập văn phòng thường trực ở Đài Loan để thực hiện bước 2 và 3: thông tin quần chúng và phát huy năng lực của các tổ chức xã hội dân sự để bảo đảm việc chấp pháp nghiêm chỉnh. Liên Minh CAMSA cũng vận động chính phủ Đài Loan nới rộng luật chống buôn người và luật lao động để bao gồm cả các “gia nhân” ngoại quốc.

“Năm 2010, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ xếp Đài Loan vào hạng 1 trong nỗ lực chống buôn người. Điều này có tác động lớn, vì nhiều quốc gia khác đã gửi phái đoàn tới Đài Loan để học mô thức chống buôn người của Đài Loan, mà mô thức này là do BPSOS đề ra. Mô thức chống buôn người do BPSOS đề ra đã thành công tại Đài Loan gồm 3 yếu tố: Phải có luật pháp nghiêm minh để bảo vệ nạn nhân. Phải có hợp tác giữa chính phủ và xã hội công dân, qua đây huy động toàn lực xã hội để xóa sổ các ổ buôn người; Cần có người chịu trách nhiệm từ phía chính phủ.”

Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng cho biết thêm, “Chính phủ Đài Loan đã áp dụng mô thức trên và đã thành công trong việc chống buôn người. Vào tháng 12 năm 2011, tổ chức Taiwan Foundation for Democracy đã công bố trao Giải dân chủ và nhân quyền Á châu 2011 cho BPSOS do Tổng Thống Ma Ying-jeou (Mã Anh Cửu) trao giải vì thành tích trợ giúp những người tị nạn tái định cư trên toàn Thế giới, đã dấn thân vào Công tác cứu người vượt biển, và đẩy mạnh công tác phòng, chống buôn người. Tôi đã đại diện cho BPSOS sang nhận giải thưởng này.”

Gây áp lực buộc Việt Nam phải ban hành Luật Phòng Chống Buôn Người

Theo tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng “Riêng tại Việt Nam cho đến mãi gần đây vẫn phủ nhận có tệ nạn buôn lao động. Liên Minh CAMSA đã phải đi đường vòng: vận dụng các hồ sơ buôn lao động can thiệp ở các quốc gia khác để chứng minh rằng có tình trạng buôn người lao động từ Việt Nam. Kết quả, năm 2010 Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách cần theo dõi vì tình trạng buôn người.

Trước áp lực này, Việt Nam đã phải ban hành Luật Phòng Chống Buôn Người ngày 31-3-2011; Luật này có hiệu lực kể từ ngày 1-1-2012. Liên Minh CAMSA đang vận động để Quốc Hội Việt Nam tuân thủ định nghĩa và các nguyên tắc quốc tế về buôn lao động.

“Bắt đầu năm 2011 Liên Minh CAMSA phát động công cuộc hướng dẫn người dân trong nước về luật xuất cảng lao động được ban hành năm 2001 nhưng không được chấp hành nghiêm chỉnh bởi các công ty môi giới và ngay cả một số cơ quan chính quyền. Bước kế tiếp, phát huy năng lực của thành phần xã hội dân sự để chống buôn người, sẽ được thực hiện trong tương lai một khi luật chống buôn người được ban hành.

“Sở dĩ Liên Minh CAMSA đặt trọng tâm vào buôn lao động, thay vì buôn tình dục. Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng giải thích “Chủ trương này xuất phát từ nhận định rằng các chính quyền, kể cả chính quyền Việt Nam, thường sốt sắng chống buôn tình dục để chứng minh với quốc tế thiện chí chống buôn người trong khi lờ đi tình trạng buôn lao động, vốn trầm trọng hơn nhiều.

“Theo ước lượng của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế, hiện có 12 triệu nạn nhân buôn lao động trên thế giới, trong khi nạn nhân buôn tình dục chỉ bằng 1/10. Tuy nhiên, tổng số các vụ truy tố trên thế giới có đến 90% là về buôn tình dục. Nói cách khác, nỗ lực chống buôn lao động chỉ bằng 1% nỗ lực chống buôn tình dục. Tình trạng ở Việt Nam còn tệ hơn: luật pháp hiện hành không thừa nhận buôn lao động; không những vậy, một số cơ quan nhà nước đã bao che cho kẻ buôn người lao động và trấn áp những nạn nhân nào dám lên tiếng. Tất cả các tổ chức được phép hoạt động ở Việt Nam phải thuần tuý tập trung vào lãnh vực buôn tình dục phụ nữ và trẻ em.

“Liên Minh CAMSA quan niệm rằng bước khởi đầu mấu chốt để bài trừ nạn buôn người, kể cả lao động lẫn tình dục, là quyết tâm từ phía chính quyền, một cách tự nguyện hay miễn cưỡng. Khi nêu cao vấn đề buôn tình dục để che đậy tình trạng buôn lao động thì mới chỉ là ra vẻ có tích cực trong việc chống buôn người. Liên Minh CAMSA tuyệt đối không tiếp tay cho việc này, sau khi giải cứu cho những trường hợp buôn tình dục, Liên Minh CAMSA không làm gì thêm với những hồ sơ này vì chúng không giúp ích gì cho kế hoạch bài trừ nạn buôn người mà có khi còn phản tác dụng.

“Liên Minh CAMSA chủ trương tập trung vào buôn lao động để vận động và theo dõi quyết tâm của chính quyền, bước đầu tiên để khởi động kế hoạch 3 bước kể trên. Một khi bảo đảm được rằng luật pháp nghiêm minh, người dân ý thức về luật và biết cách tự giúp, và các tổ chức xã hội dân sự có đủ năng lực thì những yếu tố này sẽ giúp bài trừ cả buôn lao động lẫn buôn tình dục.”
(còn tiếp)

 

Viết bình luận đầu tiên

MỚI CẬP NHẬT