Điện Ảnh, Nghệ Thuật

Ocean Vương: Câu Chuyện Những Mái Ấm Đứt Đoạn

Saturday, 01/03/2014 - 08:36:34

Càng ngày càng có nhiều cây bút trẻ gốc Việt được tán thưởng trong dòng chính ở khắp các nước Bắc Mỹ và Châu Âu. Trong bài phỏng vấn này, chúng tôi trân trọng giới thiệu với độc giả một nhà thơ gốc Việt trẻ đã đoạt nhiều giải thưởng quý giá và những tâm tình sâu sắc của Anh.

Trangđài Glasssey-Trầnguyễn thực hiện & chuyển ngữ
 


Ocean Vương
 
 
LTS: Càng ngày càng có nhiều cây bút trẻ gốc Việt được tán thưởng trong dòng chính ở khắp các nước Bắc Mỹ và Châu Âu. Trong bài phỏng vấn này, chúng tôi trân trọng giới thiệu với độc giả một nhà thơ gốc Việt trẻ đã đoạt nhiều giải thưởng quý giá và những tâm tình sâu sắc của Anh.

Về Ocean Vương (tiểu sử từ trang blog cá nhân http://oceanvuong.tumblr.com/bio, Trangđài chuyển ngữ):
Nhà thơ Ocean Vương sinh ở Sài Gòn, Việt Nam năm 1988, và được nuôi nấng bởi những phụ nữ trong gia đình – người mẹ độc thân nuôi con, các dì, và Bà Ngoại – ở Hartford, Connecticut. Anh tốt nghiệp cử nhân Văn Chương Anh ngữ tại Đại học Brooklyn College.

Ocean là tác giả của hai tập thơ: “No” (Nxb YesYes Books, 2013) và “Burnings” (Nxb Sibling Rivalry Press, 2010), vốn nằm trong danh sách American Library Association’s Over The Rainbow và được dùng rộng rãi trong các trường đại học tại Mỹ và các nước khác. Ocean nhận giải Pushcart năm 2013, bên cạnh các vinh dự khác như học bổng từ Kundiman, Poets House, và the Saltonstall Foundation For the Arts, cũng như Academy of American Poets Prize và Connecticut Poetry Society’s Al Savard Award. Thơ của Anh đã xuất hiện trong Denver Quarterly, Quarterly West, Passages North, Guernica, The Normal School, Beloit Poetry Journal, Crab Orchard Review, Best of the Net 2012 và the American Poetry Review, vốn trao cho Anh giải Stanley Kunitz Prize năm 2012. Tác phẩm của Anh đã được chuyển ngữ sang tiếng Hindi (Bắc Ấn), Đại Hàn, tiếng Việt, và tiếng Liên Xô.
Ocean sống ở New York, New York, nơi Anh đọc các tập thơ tranh giải in chapbook trong vai trò Trợ Tá Chủ Bút cho Thrush Press. Anh nghĩ quý vị thật là hoàn hảo.

TGT: Anh không nhớ gì nhiều về Việt Nam, nhưng Anh nhớ gì về nơi mình sinh ra?

OV: Tôi không nhớ gì cả. Tôi đến Mỹ khi mới một tuổi rưỡi. Tuy nhiên, tôi đã về thăm Việt Nam lần đầu năm 2009. Đó là một kinh nghiệm kinh hoàng, vì những gì tôi biết về Việt Nam lúc đó chỉ là những mảnh vụn của các câu chuyện mà Bà Ngoại tôi kể. Nói cách khác, Việt Nam mà tôi biết chỉ hiện hữu trong quá khứ, trong một khoảnh khắc còn đọng lại. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng khi trở về nhà, tôi lại cảm thấy mình là một người di dân một lần nữa – nhưng tôi đã cảm thấy như vậy.

TGT: Người Mỹ gốc Á phản đối những định kiến mà xã hội Mỹ có về phụ nữ Á Châu (và Việt Nam) như những cô gái lầu xanh, và nhập chung người Châu Á vào giai cấp nông dân. Anh trân quý xuất thân nông dân của gia đình mình và quá khứ của Bà Ngoại mình, như anh nói trong một bài viết trên trang nhà của Brooklyn College, “Thật ra, tôi rất hãnh diện về Bà. Không dễ cho tôi nói điều này. Bà mặc áo tím và làm việc của mình. Và Bà sống sót.” Anh có cảm thấy lấn cấn giữa quan điểm của mình và sự công bằng về xã hội và sắc tộc mà người Mỹ gốc Á tranh đấu để đạt tới không?

OV: Không. Tôi không thấy việc ủng hộ Bà Ngoại tôi hy sinh cho gia đình là một quan điểm về xã hội và sắc tộc. Sự hãnh diện về gia đình của một cá nhân và quan điểm ý thức xã hội của cá nhân đó là hai điều độc lập. Nói cách khác, tại sao một người không thể vừa phê bình những định kiến về người gốc Á của truyền thông Hoa Kỳ, vừa ủng hộ những ai phải trãi qua một vài chiều kích của những định kiến đó để sống còn? Tôi nghĩ đây là một sự phân biệt quan trọng – đặc biệt là cho những thế hệ người Mỹ gốc Á thế hệ thứ hai và ba, bởi vì họ bị tách rời khỏi kinh nghiệm tang thương trong lịch sử Á Châu từ thập niên 1940 đến 1970, và vì vậy, có đặc quyền phân chia những tang thương thành những vấn đề về xã hội và sắc tộc.

TGT: Về lịch sử của gia đình mình, Anh nói, “Tôi nhận ra rằng những câu chuyện này thật quý giá, nhưng chúng sẽ chết theo người kể – như văn chương. Vì tôi là người duy nhất trong gia đình có khả năng viết lách, nên tôi đã ghi lại những câu chuyện này.” Đây là một vinh dự lớn, đồng thời cũng là một trách nhiệm lớn, phải không? Anh làm thế nào để cân bằng cái áp lực và quyền lực của một người giữ lại những câu chuyện này?

OV: Tôi không cảm thấy bị áp lực. Gia đình tôi hoàn toàn mù chữ – cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Điều mà họ cho tôi trong câu chuyện của họ là một món quà, một di sản. Nhưng, không như của cải hay di sản vật thể, món quà này không thể bị bể hay đánh cắp. Tôi cảm kích cơ hội đưa những câu chuyện này, những cuộc đời này, vào nghệ thuật bằng cách thêm chúng vào trong câu chuyện của chính tôi và sáng tạo của tôi. Tôi không phải là một sử gia. Và, trong ý nghĩa đó, áp lực về mặt chính xác còn rất ít. Tôi điền vào chỗ trống và những khoảng trống bằng những điều tôi tự nghĩ ra.

TGT: Đời sống nghèo khó đã mang đến cho Anh những quà tặng nào?

OV: Tôi không bao giờ thấy mình sống trong nghèo đói – tuy tôi nhận ra rằng gia đình tôi nghèo kinh khủng. Thật ra, trong thời gian chúng tôi qua Mỹ, Việt Nam đang phát triển. Nhiều gia đình bắt đầu có TV hoặc radio. Khi mới đến Mỹ, cả nhà chỉ có một căn phòng trống với vài cái mền từ Salvation Army. Tôi đoán sống như vậy là nghèo. Nhưng chúng tôi nhận được trợ cấp xã hội và giúp đỡ từ nhà thờ ở vùng đó, nơi có những buổi phát thực phẩm mỗi Chủ Nhật với cereal hết hạn và bánh mì cũ. Tôi không biết nữa. Tôi nghĩ rằng sự nghèo khổ tương đối dạy cho tôi biết quý những gì tôi có: sự hiện diện của gia đình và sức mạnh của những câu chuyện, hình ảnh, và bài hát. Thêm nữa, khi bạn không có gì nhiều, thì bỗng nhiên mọi thứ đều là một quà tặng – một ơn lành thật sự, cảm thấy được. Và tôi thích vậy. Không có gì là chán hết. Bất cứ cái gì cũng là một phụ trội.

TGT: Là một thi sĩ có thể đồng nghĩa với cảm giác phân cách với gia đình của chính mình, nếu không phải là với chính mình và với thế giới xung quanh, lúc này hoặc lúc khác. Nhưng để làm một thi sĩ và người khoa bảng trong gia đình có thể làm tăng thêm cảm giác cách biệt này. Anh có cảm thấy như vậy không? Và Anh làm gì với sự cách biệt đó?

OV: Tôi nghĩ tôi cũng rất may mắn là, không như các phụ huynh Mỹ gốc Á truyền thống vốn muốn con cái họ trở thành bác sĩ hay luật sư, gia đình tôi rất hãnh diện có một người khoa bảng và thi sĩ. Tôi nghĩ vì đối với họ, biết đọc là một quyền lực mà họ chưa bao giờ hiểu hay trãi qua, và vì vậy họ coi nó như một điều đáng được kính ngưỡng và quan trọng – thậm chí như phép thuật. Có nhiều lúc tôi đọc tạp chí phổ thông như People hay các báo tạp nhạp khác ở bàn ăn và mọi người từ từ rời khỏi phòng, thì thầm với nhau, “Shhhh. Đi chỗ khác. Ocean đang đọc.” Đối với họ, việc đọc cũng không khác với phép thuật. Ở một cách nào đó, gia đình tôi nói đúng: trong nhà, tôi lo tất cả những việc liên quan đến chữ nghĩa. Tuy sống ở New York City, nhưng tôi lo hết các hoá đơn, những cuộc hẹn khám bệnh, thuế má – tôi còn đi họp phụ huynh cho em trai tôi nữa. Đây là những điều tối thiểu tôi có thể làm cho những hy sinh mà gia đình đã làm cho tôi. Và tôi đã cố nhiều lần dạy Mẹ tôi tiếng Anh – nhưng thật khó trong một gia đình Á Châu để một người con trai hay một người con dạy bất cứ điều gì cho một người lớn. Thứ bậc đóng một vai trò quan trọng trong quan hệ gia đình và việc đổi ngược vai trò thường rất khó khăn, nếu không nói là không thể.

TGT: Anh là một Phật tử thuần thành. Đời sống tâm linh đã ảnh hưởng và định hướng cõi thơ của Anh như thế nào: cả trong quá trình viết, và trong nhân sinh quan của Anh?

OV: Đối với Phật tử, căn cội của tất cả khổ ải đều là chính dục vọng. Tôi chấp nhận sự thật là tôi không phải là một tu sĩ, và đời sống của tôi cũng thường bị sai khiến bởi ngay cả những dục vọng căn bản nhất: công việc, căn nhà cho Mẹ tôi, quyển sách mới ấn hành của một tác giả nào đó, cơ thể một người đàn ông, những không gian tĩnh lặng và rộng mở. Tuy nhiên, điều mà tôi thấy hầu như không thể chấp nhận được, là vừa làm Phật tử vừa làm this ĩ. Vâng, những thi sĩ Phật giáo khác như Jan Hirshfield và Gary Snyder, cả hai thi nhân tôi đều ngưỡng mộ, đã làm được. Nhưng đối với tôi, nội sự ham muốn sáng tác thơ của tôi cũng là vấn đề. Ngay trong khi tôi viết những điều này, hằng trăm tu sĩ Phật giáo ở Tây Tạng đang bị đánh đập, giết chết, và đàn áp bởi chính quyền Trung Quốc. Bài thơ của tôi sẽ làm gì cho họ? Thật khó để tôi đối diện với chữ nghĩa của chính mình khi cả thế giới đang sôi động, còn tôi, tôi đang loay hoay với một mớ giấy mực.

Như chính cơ thể mà tôi có đây, hành động viết, đối với tôi, chỉ là một phương cách dịch thuật, một nơi để giữ linh hồn. Hơn nữa, tôi phải đối diện với sự thật rằng bài thơ của tôi sẽ không bao giờ là cái mà tôi dự tính – tôi chỉ có thể đến thật gần điều mình muốn viết (nếu tôi may mắn). Tôi phải chấp nhận sự thật rằng chính những chữ nghĩa mà tôi nhào nặn cuối cùng cũng sẽ làm tôi thất bại. Jack Gilbert có lẽ nói điều này thấm thía hơn cả, “Tình yêu, chúng ta nói, Thượng đế, chúng ta nói, Rome và Michiko, chúng ta viết, và ngôn từ vẫn hiểu sai chúng ta.” Vậy đó, ngôn từ hiểu sai chúng ta, và dù vậy, chúng ta vẫn thức dậy, chúng ta cố yêu nhau, cố chống chọi với khả năng hành xử tàn ác của mình, và chúng ta thử, chúng ta sáng tạo, và chúng ta đào bới ngôn ngữ cho đến khi chúng ta thoả mãn nhu cầu tạo ra một cái gì đó có ý nghĩa. Nhưng việc cố gắng là điều tôi sợ. Tôi cầm bút lên và nghĩ, “Liệu tôi có thể làm điều gì tốt hơn với đôi tay này không?” Khi tôi sửa những khuyết điểm trong bài thơ, những khuyết điểm của một nam nhân chồng chất quanh tôi, thường là không được chú ý đến. Điều này làm cho tôi sợ hơn bất cứ điều gì: ý nghĩ là tôi sẽ dùng hết thời gian quý báo trên đời để viết những bài thơ ít người đọc đến, trong khi có quá nhiều điều tôi có thể làm với cơ thể mà tôi đã được cho.

TGT: Anh bắt đầu làm thơ khi Bà Ngoại của Anh qua đời. Viết như tang niệm. Viết như cách ghi lại tiếng nói của Bà. Bà đã ở lại với Anh như thế nào qua các tác phẩm? Nếu có thể làm cho Bà một điều, Anh sẽ làm gì?

OV: Bà Ngoại tôi sẽ luôn luôn là một phần của tôi, cũng như tôi là một sự tổng hợp của các câu chuyện của Bà và của chính tôi. Bà dạy cho tôi rằng những gì tôi học được hay có được trong đời này, tôi đã có rồi – và mỗi lần tôi gặp gỡ với thế giới, bao gồm các công dân của nó, là một sự bùng phát của những kinh nghiệm tiềm ẩn. Nói như vậy, thì Bà Ngoại đã ở trong tôi rồi – ngay cả trước khi Bà mất, Bà đã gieo cấy những mảng của chính Bà trong trí tưởng tượng của tôi. Bà luôn ở với tôi trong mỗi chữ. Nếu có thể làm một điều – tôi sẽ tiếp tục làm thi sĩ.

TGT: Thơ ca có lẽ cách tốt nhất để tưởng thưởng và tưởng nhớ một người mà – từ cách Anh nói về Bà – xem chừng là người có ảnh hưởng lớn nhất đối với Anh, vì Bà là người chăm sóc cho Anh, là Việt Nam của Anh. Anh có nghĩ rằng nếu Anh có thể viết bằng tiếng Việt, thì Anh sẽ cảm thấy một cách hoàn toàn khác để ở bên Bà và tưởng nhớ Bà không?

OV: Không. Tiếng Việt rất quý giá đối với tôi vì nó là ngôn ngữ tôi sử dụng trong bếp, với gia đình. Đó là ngôn ngữ mà tôi học từ những cái chết và sự ra đời của người thân. Qua đó, tiếng Việt hoàn toàn độc lập với nghệ thuật và những gì phức tạp. Khi tôi nói tiếng Việt, tôi nói trong mạch nước trong. Tôi thoải mái nhất. Tôi có thể nói tất cả và không nói gì cùng một lúc. Nên tôi không muốn sáng tác bằng tiếng Việt. Tôi không muốn dùng ngôn ngữ đó cho thơ ca. Tôi không muốn làm hoen ố nó. Hơn nữa, âm nhạc, âm điệu trong tiếng Việt thì đã thơ đủ rồi.

TGT: Anh chào đời 13 năm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Nhưng lịch sử gia đình đã đặt Anh ngay vào giữa cuộc chiến – với công việc mà Bà Ngoại của Anh đã làm để sống còn, với những cái chết của những người nam trong gia đình, và mọi việc khác. Khi nào thì Anh bắt đầu ý thức được về chiến trnah Việt Nam? Anh có quan hệ cá nhân như thế nào với cuộc chiến?

OV: Tôi trở nên ý thức về chiến tranh khi tôi cứ thấy người Việt, thường được đóng bởi những diễn viên da trắng với khuôn mặt vàng, bị John Wayne bắn trên màn hình TV. Tôi nghĩ thật là kỳ quặc khi nhiều người Việt bị bắn chết bởi ‘người tốt.’ Tôi nghĩ tôi phải là một ‘người xấu.’ Nên tôi đi thư viện để thử tìm hiểu xem tôi xấu như thế nào. Đó là khi tôi khám phá ra sách và chữ. Và qua sách, tôi biết rằng bạn có thể dùng chữ để biến một người thành người tốt hay người xấu. Như thể ảo thuật.

TGT: Anh có nói cho gia đình biết mình là người đồng tính không? Và giới tính của Anh có ảnh hưởng đến quan hệ giữa Anh và gia đình không? Đối với Anh, là một người nam đồng tính có nghĩa là gì?

OV: Tôi nói cho Mẹ tôi biết khi tôi mười tám tuổi. Mẹ tôi nói, “Vậy là từ nay, con sẽ mặc đầm hả?” Mẹ tôi có lo lắng ban đầu, nhưng đã nhanh chóng chấp nhận. Thật ra, chính điều này đã làm chúng tôi gần gũi nhau hơn. Như chị thấy, gia đình tôi đã mất mát quá nhiều – không chỉ trong chiến tranh, mà còn qua những chật vật ở Mỹ. Chúng tôi sống như không biết ngày mai. Và, dĩ nhiên là vì những lý do chính đáng. Đối với nhiều thành viên trong gia đình tôi, đã có nhiều lúc, ngày mai đã thật sự không bao giờ đến. Không giống như những anh chị em đồng tính gốc Á khác, đối với tôi, những khó khăn khi tuyên bố giới tính của tôi thì rất nhỏ so với những kinh hoàng mà gia đình tôi đã trãi qua – như bom đạn và trại cải tạo. Chúng tôi sống như thể chúng tôi không nên có được một cơ hội thứ hai, nên hiếm khi chúng tôi có định kiến. Có lẽ vì vậy mà phần lớn gia đình tôi đều bị phá sản. Giống như Bà Ngoại hay nói, “Chơi xả láng, sáng về sớm!” (tđ)

Viết bình luận đầu tiên

MỚI CẬP NHẬT