Đời Sống Việt

SỬ CŨ THƠ XƯA (3)

Sunday, 23/08/2015 - 12:19:02

Thơ Hán Nôm (của thi nhân đời Hồng Đức) và thơ Quốc ngữ đều có nói đến Phù Đổng thiên vương.

Với mục Sử Cũ Thơ Xưa, câu chuyện của nước Việt ta được kể lại từ thời vua Hùng Vương đến thời của thi sĩ Vũ Hoàng Chương

1) HÙNG VƯƠNG (tiếp theo)

Đời vua Hùng Vương thứ sáu có chuyện Phù Đổng Thiên Vương:
Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu giặc Ân sang đánh nước ta. Một em bé (3 tuổi) ở làng Phù Đổng (nay là làng Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội) xin vua đúc cho một ngựa sắt (18 thước), một thanh kiếm (7 thước) và một nón sắt lớn rồi liền vươn vai đứng dậy cao 2 trượng dẫn quan quân đánh bại giặc Ân từ núi Trâu (Châu Sơn ?) đến tận núi Ninh Sóc (còn gọi là Sóc Sơn, nay là Sóc Sơn, Hà Nội). Trong chiến trận khi kiếm gãy thì ông dùng tre mà đánh giặc. Sau đó người và ngựa bay về trời ở núi Ninh Sóc. Vua Hùng Vương phong là Phù Đổng thiên vương lập miếu thờ ở làng Phù Đổng. Tục gọi là Làng Gióng nên dân Việt gọi ông là Thánh Gióng.
Thơ Hán Nôm (của thi nhân đời Hồng Đức) và thơ Quốc ngữ đều có nói đến Phù Đổng thiên vương.

THÁNH GIÓNG
Tinh anh dấu được khí kiền khôn
Thiên tướng vang lừng tám cõi đồn
Nghe tiếng Hùng Vương bèn nảy việc
Mảng danh nghịch tặc đã kinh hồn
Vợt vàng ngựa sắt hằng di để
Làng Gióng non Trâu miếu hãy còn
Tự điển trời Nam ngôi đệ nhất
Âm phù quốc thế vững bằng non.
(Thi nhân đời Hồng Đức)

PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
Thiên Vương từ thuở mới lên ba
Ra sức phù nguy vị nước nhà
Ngựa sắt xông pha cơn gió bụi
Gươm vàng vùng vẫy chốn trường sa
Muôn dân thoát khỏi vòng binh cách
Một trận vang lừng tiếng khải ca
Dưới núi Vũ Ninh còn dấu tích
Ngàn thu thanh sử nét chưa nhòa.
(Tạ Bình Hải)

Nhà Thương do Thành Thang sáng lập (vào khoảng 1600 tr CN) là triều đại chính thức của nước Tàu với chữ viết còn lưu lại trên mu rùa (gọi là Giáp Cốt Văn). Vua thứ 19 là Bàn Canh (1400-1374 tr CN) dời đô từ Thương Khâu về đất Ân nên gọi là nhà Ân Thương. Vua Trụ (Vương) thua trận Mục Dã, nhà Ân Thương bị vua Chu Vũ Vương và Khương Thượng (Tử Nha) tiêu diệt năm 1122 tr CN. Căn cứ vào lịch sử thì câu chuyện Phù Đổng Thiên Vương có thể có thật ?

Đời vua Hùng Vương thứ 18 có chuyện Lý Ông Trọng:
Lý Ông Trọng sinh vào thời vua Hùng Vương thứ 18. Người cao 2 trượng 3 thước và có sức khỏe. Vì không được trọng dụng nên ông sang làm quan cho Tần Thủy Hoàng đến chức Tư Lệ Hiệu Úy. Ông trấn biên giới làm quân Hung Nô phải kiêng sợ. Đến khi già, ông về ở quê hương (nước Văn Lang). Tần Thủy Hoàng cho đúc tượng giống hệt ông ở kinh đô Hàm Dương, trong ruột chứa được vài mươi người. Mỗi khi sứ bốn phương tới thì thầm sai người vào trong ruột lay động pho tượng (như người thiệt còn sống). Người Hung Nô ngỡ là ông còn sống không dám đánh nước Tần.
Đời Đường Đức Tông, Tiết Độ Sứ Triệu Xương của An Nam Đô Hộ Phủ nằm mộng thấy ông hiện lên giảng kinh Xuân Thu và Tả Truyện. Triệu Xương mới lập đền thờ ở chỗ nhà cũ của ông Lý Ông Trọng là làng Thụy Hương huyện Từ Liêm (tục gọi là làng Chèm, nay là Từ Liêm, Hà Nội). Sau nầy ông còn hiển linh cho Cao Biền. Dân gian gọi ông là Thánh Chèm. Sau nầy ông cũng có hiển linh cho ông Trần Nguyên Hãn và ông Nguyễn Trãi bảo nên phò tá ông Lê Lợi.

LÝ ÔNG TRỌNG
Tầm cả tầm cao chín xuất quần
Khí thiêng quang nhạc dấu mười phần
Phò nam dẹp bắc tài văn võ
Chắn nước dời non sức quỷ thần
Vòi vọi Thụy Hương từ đã đặng
Nhơn nhơn Tư Mã tiếng còn răn
Chàng Cao gã Triệu chiêm bao rõ
Càng sợ An Nam có thánh nhân.
(Thi nhân đời Hồng Đức)

Tần Thủy Hoàng tên là Doanh Chính (259-210 tr CN) lên làm vua nước Tần lúc 13 tuổi trong thời Chiến Quốc vào năm 247 tr CN. Năm 221 tr CN vua Doanh Chính gồm thâu Lục Quốc thống nhất Trung Quốc tự xưng là Tần Thủy Hoàng Đế và qua đời năm 210 tr CN. Vua Hùng Vương thứ 18 bị thua Vua Thục Phán (An Dương Vương) năm 258 tr CN trước khi Doanh Chính làm vua (mới 2 tuổi). Do đó chuyện ông Lý Ông Trọng đánh bại và sau đó “thị uy” Hung Nô trong thời vua “Doanh Chính Tần Thủy Hoàng” bên Tàu hoàn toàn xảy ra trong thời An Dương Vương (257-207 tr CN)?

Nước Việt ta có vị vua đầu tiên là vua Hùng và vị vua thật sự cuối cùng là vua Tự Đức. Điều lạ là vua Tự Đức có làm thơ về vua Hùng. Vua Tự Đức làm bài thơ bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Hán Nôm.

HÙNG VƯƠNG
Văn Lang kiến quốc lịch thiên niên
Phụ đạo tương thừa thập bát truyền
Tự thị tửu binh năng khước địch
Khẳng tương lân nghị ngộ thuyền quyên.
(Vua Tự Đức)

Văn Lang dựng nước trải ngàn niên
Phụ đạo qua mười tám đời truyền
Tự cậy rượu binh hay đuổi địch
Nỡ đem lân nghị lụy thuyền quyên.
(Vua Tự Đức dịch)

Viết bình luận đầu tiên

MỚI CẬP NHẬT