Văn Nghệ

Vẻ đẹp của nghệ thuật Hát Chèo (kỳ 2)

Friday, 17/11/2017 - 08:48:59

Nếu ca Trù không thể thiếu tiếng phách, đàn đáy, trống chầu, Đờn Ca Tài Tử không thể thiếu tiếng đàn Kìm (đàn Nguyệt), thì trong Chèo không thể thiếu sự hỗ trợ của tiếng đàn Cò (đàn Nhị), tiếng Sáo, tiếng Trống Đế cùng với âm thanh của cả một dàn nhạc.

Bài BĂNG HUYỀN

Chèo là nghệ thuật sân khấu kể chuyện thông qua diễn trò, gồm trò Chèo, hát Chèo, nhạc Chèo, múa Chèo và diễn Chèo. Dàn nhạc Chèo đóng vai trò quan trọng cho biểu diễn, ca hát của nghệ sĩ và là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên nét đặc trưng của nghệ thuật sân khấu Chèo. Âm nhạc của Chèo gồm có nhạc hát và nhạc đàn. Nếu giọng hát là chủ đạo của Chèo, thì âm nhạc lại là cái hồn của Chèo. Giọng hát, tiếng đàn không thể tách rời, tạo nên một phong cách sân khấu riêng biệt.


Giáo sư Nguyễn Châu giới thiệu cách đánh Trống Đế. (Băng Huyền/ Viễn Đông)

Phần nhạc đàn của Chèo không chỉ đệm cho hát, làm nền cho cảnh diễn, tạo tình huống kịch, nó còn để mở màn cho vở diễn, gắn bó chặt chẽ với nội dung vở diễn, thu hút khán giả, tạo không gian hấp dẫn với người xem. Khi vở diễn bắt đầu, âm thanh của dàn nhạc sẽ gắn kết từng màn, từng cảnh với nhau, báo hiệu diễn biến tiếp theo của nội dung. Dàn nhạc còn khái quát không gian, thời gian của cốt truyện vở diễn, giúp diễn tả tâm trạng nhân vật, tạo nên không khí, tiết tấu, tốc độ cho vở diễn và làm nền cho diễn viên múa, làm phần nhạc đệm cho diễn viên hát hoặc thể hiện các động tác sân khấu khi biểu diễn. Có thể thấy, âm nhạc trong Chèo có vai trò thể hiện nội tâm nhân vật, khắc hoạ cho phần diễn của nhân vật rất rõ nét.


Giáo sư Nguyễn Châu giới thiệu cách đánh Trống Đế. (Băng Huyền/ Viễn Đông)

Nếu ca Trù không thể thiếu tiếng phách, đàn đáy, trống chầu, Đờn Ca Tài Tử không thể thiếu tiếng đàn Kìm (đàn Nguyệt), thì trong Chèo không thể thiếu sự hỗ trợ của tiếng đàn Cò (đàn Nhị), tiếng Sáo, tiếng Trống Đế cùng với âm thanh của cả một dàn nhạc.

Mỗi loại nhạc cụ trong dàn nhạc chèo đều thể hiện một âm sắc riêng, tuỳ vào các tình huống của câu chuyện kịch sẽ sử dụng nhạc cụ khác nhau cho phù hợp, mỗi nhạc cụ có lối diễn tấu và sức truyền cảm riêng, các nhạc cụ còn được cấu trúc theo xu hướng gần gũi với giọng người, khi kết hợp với nhau lại tạo thành một thể thống nhất chuyển động nhịp nhàng theo nội dung vở diễn mang màu sắc, đặc trưng riêng của nghệ thuật Chèo.


Giáo sư Nguyễn Châu giới thiệu cách đánh Trống Đế, (Băng Huyền/ Viễn Đông)

Dàn nhạc Chèo thường có đàn Cò, đàn Hồ, đàn Nguyệt (Đàn Kìm), Tam Thập lục, Bầu, Tiêu, Sáo.
Bộ gõ thì có trống Đế, trống Ban, trống Cơm, Thanh la, Mõ, Não bạt, Sinh tiền, Tiu cảnh, Chiêng...
Theo Giáo sư Nguyễn Châu (là một trong những người sáng lập và là giám đốc nghệ thuật Đoàn Văn Nghệ Dân Tộc Lạc Hồng từ năm 1989 đến nay) với Chèo, phần nhạc êm dịu đưa đẩy thì có tiếng đàn Cò, cây đàn Kìm để giữ nhịp, tạo không khí rộn ràng thì có trống Đế. Trống Đế rất quan trọng trong dàn nhạc Chèo.

Nét độc đáo của Trống Đế trong dàn nhạc Chèo

Giới thiệu về Trống Chèo, giáo sư Trần Văn Khê (sinh ngày 24 tháng 7, 1921, mất ngày 24 tháng 6, 2015, là một nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền và là tiến sĩ ngành âm nhạc học người Việt Nam đầu tiên tại Pháp, từng là giáo sư tại Đại học Sorbonne, Pháp, thành viên danh dự Hội đồng Âm nhạc Quốc tế, UNESCO) có phổ biến trên mạng, viết rằng, "Tiếng trống và cách sử dụng tiết tấu là một trong những ưu thế của âm nhạc truyền thống Việt Nam, trống có vai trò chủ đạo, dẫn dắt trong biểu diễn của một số bộ môn, chớ không chỉ đơn thuần đi theo, phụ họa.

"Trống Chèo có những chức năng như, khi khai tràng (mở đầu) có tiếng trống Đế. Đánh những bài đầu thì tiếng trống nổi lên hợp với tiếng mõ và tiếng la tạo ra một không khí sôi động để cho mọi người chú ý để mở màn. Trống Đế dùng hai dùi, khi đánh mau vào hai bên tang trống là róc tang; đánh vào giữa mặt trống là lên mặt; tay trái đè mặt trống, tay phải gõ dùi lên mặt trống là bịt mặt; hai dùi đánh mau trên mặt trống là đổ trống. Đánh theo nhịp gọi là đánh khổ trống với nhiều cách đánh từ đổ 2 nhịp, 4 nhịp, 6 nhịp đến 8 nhịp. Không phải chỉ đánh chân phương mà thường đánh hoa lá, thay đổi theo tình tiết của vở diễn, không khí trầm lắng hay rộn rịp của lớp trò và diễn tả được tâm trọng vui buồn của nhân vật.

"Do trống đế là nhạc khí chủ đạo nên người đánh trống đế gần như là chỉ huy dàn nhạc. Người đánh trống càng tinh tế tài hoa thì diễn viên và dàn nhạc càng hứng thú và hiệu quả buổi diễn sẽ càng cao.Có thể nói, xưa nay người Việt Nam khi thưởng thức âm nhạc ít lưu tâm đến tiếng trống, không cảm nhận được tầm quan trọng của trống trong âm nhạc truyền thống. Rõ ràng nhìn vào bề sâu mới thấy trống có vai trò chủ đạo, dẫn dắt trong sự biểu diễn của một số bộ môn chớ không chỉ đơn thuần đi theo, phụ họa."

Hình dáng của Trống Đế kích thước to, nhỏ khác nhau.

Trống Đế là gì?

Mô tả về trống Đế, trên wikipedia.org (Bách Khoa Toàn Thư Mở) giới thiệu:

Trống Đế hay còn gọi là trống Chầu, là một nhạc cụ gõ, họ màng rung xuất hiện ở Việt Nam từ khá lâu đời. Trong nghệ thuật Chèo người ta gọi nó là trống Đế, còn trong ca Trù nó là trống Chầu. Đúng như tên gọi, trống Đế làm nhiệm vụ đế, có nghĩa là lót, là chỗ dựa, làm điểm xuyết cho diễn viên khi biểu diễn và ca hát.
Trống Đế có hai mặt trống hình tròn, đường kính bằng nhau khoảng 15 cm. Mặt trống thường là da nách trâu nạo mỏng (rất dai và bền) đủ sức chịu đựng độ căng mặt trống. Đường viền da bịt mặt trống trùm xuống thân trống khoảng 3 cm, được đóng bằng đinh tre. Da trống căng nhưng phải định âm tương ứng giọng hát của diễn viên. Tang trống cao khoảng 18 cm, bằng gỗ mít nguyên khúc gọi là tang liền, song có khi bằng những mảnh gỗ mít chấp lại, sơn phết bên ngoài. Hai dùi trống dài khoảng 25 cm, bằng gỗ cứng. Phía đầu tay cầm to hơn phía đầu gõ vào mặt trống.

Âm thanh Trống Đế nghe vui, cao, lảnh lót, hơi đanh nhưng gọn tiếng. Người ta đánh vào nhiều vị trí khác nhau trên trống đã tạo ra được nhiều âm thanh khác nhau:
· Đánh vào giữa mặt trống, tiếng trống nghe vang, giòn.
· Đánh vào mặt trống nhưng giữ nguyên dùi, âm thanh sẽ khô, xỉn.
· Đánh vào cạnh mặt trống nghe như tiếng phách.
Nhờ kết hợp tài tình các lối đánh ở mặt và tang trống, gây ra sự đối lập nhưng lại hài hòa về màu sắc, âm thanh.
Về kỹ thuật biểu diễn, với ngón vê: Hai tay thay đổi nhau gõ thật nhanh và liên tục hai bên tang trống và trên mặt trống.

Và ngón nóc: Hai tay thay đổi gõ nhanh vào tang trống, nhưng thường là n?m tiếng một, tiếng sau cùng có độ ngân bằng bốn tiếng đầu.

Do trống Đế có ở Việt Nam từ lâu đời. Trống được coi là nhạc khí gõ cao âm quan trọng, không thể thiếu trong ca Trù và sân khấu Chèo truyền thống. Ngoài ra trống cũng được dùng trong một vài thể loại ca nhạc dân tộc khác như Chầu V?n nhưng không phổ biến bằng."

Trên trang web tatham.vn, có viết, "Thường người ta hay có câu "Phi trống bất Chèo" cho thấy vai trò không thể thiếu của bộ gõ nói chung và tiếng trống nói riêng trong sân khấu Chèo truyền thống. Thông thường thì vở Chèo được mở đầu bằng điệu hát Vỡ nước với sự phụ hoạ của hồi trống rung, kết thúc buổi diễn thì có hát Vãn trò với trống giã đám. Bên cạnh đó, thông qua một số ước lệ trong kỹ thuật diễn tấu trống, người diễn viên như cảm nhận được những qui định về hành động sân khấu của mình như: Rù trống (vê dùi trên mặt trống) là diễn viên đang di động; Rụp trống là diễn viên dừng lại; Cắc trống lúc khoan lúc nhặt là diễn viên đang suy nghĩ, tính toán chuẩn bị hành động... Ngoài ra, cũng như sân khấu Tuồng, Chèo trước đây còn sử dụng trống Chầu để "cầm trịch" buổi diễn (thậm chí là khen,chê), do một người có vai vế, uy tín hoặc am hiểu sâu về nghệ thuật sân khấu điều khiển.

Các nhạc cụ gõ trong Chèo có khả năng quán xuyến, điều hành tiết tấu vở diễn, dẫn dắt sự chuyển màn, chuyển lớp, sự ra vào của diễn viên trên sân khấu… Đúng như nhà nghiên cứu Bùi Đức Hạnh đã nhận định: "Trống Chèo (bộ bõ) là linh hồn của dàn nhạc Chèo vì nó là nguồn sáng tạo chủ chốt, kích thích mọi sự sáng tạo khác của các cây đàn cùng hoà điệu tạo nên một phong cách chỉnh thể của âm nhạc Chèo trong lối đệm cho hát cũng như hoà tấu nhạc không lời.

Nói như vậy không có nghĩa, bộ gõ là yếu tố duy nhất làm nên hiệu quả cho cả dàn nhạc. Mà ở đây, bộ gõ rất quan trọng trong việc tạo không khí bề ngoài cho diễn xuất, tuy nhiên khó có thể tạo được hiệu quả trữ tình, nội tâm sâu lắng của nhân vật. Điều này chỉ có thể đạt được nhờ các nhạc cụ thuộc họ dây, họ hơi. Ví như tiếng đàn nhị - líu - hồ nhấn vuốt, luyến láy bám sát giọng người, khơi gợi những mạch nguồn sâu thẳm của giọng hát. Tiếng sáo - tiêu vừa trong sáng bay bổng, vừa mơ hồ, xa xăm, lại giàu chất gợi cảm, trữ tình. Tiếng đàn bầu - đàn tranh da diết, cảm thương, ngân nga, vang vọng, giàu chất trữ tình thể hiện những suy tư thầm kín, những uẩn khúc bi thương... Với cách sử dụng đa dạng, hợp lý các nhạc cụ kể trên, ông cha ta đã tạo nên một sân khấu Chèo có cách thể hiện hài hoà về âm nhạc giữa cái hài, cái hùng và cái bi, chứ không quá bi hùng như sân khấu Tuồng hay bi luỵ như sân khấu Cải lương.

Qua vài nét sơ khảo về vẻ đẹp của nghệ thuật hát Chèo, người viết hy vọng mang đến cho người đọc cái nhìn khái quát của Chèo, một nghệ thuật đậm màu sắc trữ tình của ca dao, tục ngữ, tràn đầy tính lạc quan với những nụ cười dân dã thông minh, hóm hỉnh mà không kém phần trí tuệ, giàu tính nhân văn, thiện thắng ác, những bài học nhân ái…

Chỉ tiếc rằng, dù Chèo là vốn quý của sân khấu cổ truyền Việt Nam, nhưng nghệ thuật này hiện nay đang dần bị lãng quên trong nước. Chủ yếu chỉ còn tồn tại trong vài trường nghệ thuật mà cũng chỉ tập trung chủ yếu dưới các thôn, quê và người trẻ theo đuổi nghệ thuật này còn rất khiêm tốn, ít ỏi. Đây cũng là nỗi buồn của những nghệ sĩ Chèo có tâm huyết với nghề, e ngại rằng nghệ thuật này sẽ dần mai một và mất đi, thì đáng tiếc vô cùng!

Viết bình luận đầu tiên

MỚI CẬP NHẬT