Đạo và Đời

Huân tập niệm Phật hàng ngày để dùng lúc lâm chung

Wednesday, 26/09/2018 - 08:13:37

Năm 1968, Hòa Thượng Thích Thiền Tâm khai mở tông Tịnh Độ ở thôn Phú An, Đức Trọng, Lâm Đồng. Hòa Thượng đã mời Thầy về để cùng một số Ni chúng thành lập xã Hoa Sen, noi gương Tổ Huệ Viễn. Nơi đây, Thầy nhập thất tại tịnh thất Linh Quang, chuyên tâm niệm Phật.


Sư Bà Hải Triều Âm vẫn luôn an nhiên tự tại, dù trong nhiều năm Thầy mang những tật bệnh trên người cho đến lúc viên tịch năm 94 tuổi. (Hình không rõ nguồn)

Khai thị của SƯ BÀ HẢI TRIỀU ÂM

Giờ phút lâm chung, có rất nhiều cảnh hiện lên, mình phải nhớ những cảnh này là nghiệp báo của mình.
Khi gặp những cảnh trái ý mình, thì mình liền có phản ứng, và thâm tâm không có ưa mà ghét. Lúc lâm chung ấy, chỉ nổi một niệm không ưa hay ghét một cái, thì chưa thấy người làm mình không ưa đó người ta làm sao, mà bản thân mình không vào địa ngục, thì cũng vào hang rắn, hang cọp, bởi vì cái sân nổi lên. Chỉ cần một cái bất mãn thôi, cũng đủ để đưa chúng ta đến những con đường ấy rồi.

Cách thức làm thế nào để giải thoát? Giải thoát chỉ ở chỗ mình nhận thấy những có tướng này là không thật, theo nhân mà có. Chúng ta phải luôn hành trì niệm Phật miên mật, trong tâm chỉ có đức Phật A Di Đà thôi. Những cảnh, những người chúng ta tiếp xúc hàng ngày đó, chỉ là những hình ảnh của nghiệp báo của mình hiện lên. Phải luôn nhớ như thế, để lúc nào chúng ta cũng có cái tâm hòa hài với tất cả. Không có thấy mình là một thể riêng biệt.

Bây giờ chúng ta thấy một kẻ giết người đang đứng đây, mình ghét người ta. Khi cái tâm khó chịu đó nổi lên, thì đã có sự phân cách giữa mình và người đó. Và như thế thì cái Ngã của mình không thể tiêu trừ.
Cho nên Phật dạy chúng ta trong lúc còn sống, chúng ta phải luôn thực tập quán, để mỗi khi những thứ đó hiện lên nơi mắt của chúng ta, chúng ta phải biết đó là giả. Chúng ta phải tập cho được cái thói quen này, và buông xả hết những cái gì mà mình thấy trái ý mình.

Cho nên mỗi âm thanh hiện ra, mình phải tập quán, quán cái tướng hư vọng của nó. Nó chỉ là do nghiệp báo của mình hiện ra, mà cái tánh là Phật, là Tổ, là Như Lai tạng. Chúng ta phải tập như thế hàng ngày. Mà phải tập đến trình độ bảy con chó xúm lại cắn mình, mà mình vẫn nhớ được đây là đức Di Đà đang hiện ra, mà cái tướng là hư vọng, là nghiệp báo của mình.

Bất cứ chuyện gì hiện ra cũng đều là cái tướng của nghiệp báo của mình mà thôi, dù là hay hay dỡ.
Chúng ta tu theo đức Phật A Di Đà, chúng ta phải nhớ cái tánh của Ngài là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ ở khắp pháp giới. Thế thì nếu hiện tại bây giờ mà mình không tập, thì lúc lâm chung mình sẽ không giữ được chánh niệm, bởi vì không quen. Có người mỗi ngày huân tập theo lời Phật dạy, khi lâm chung mặc dù đạo hạnh còn kém, nhưng họ vẫn được giải thoát. Và những vị chưa tập, chưa quen, mặc dù đạo hạnh rất khá, nhưng mà tới lúc lâm chung, họ khởi lên cái ý niệm xấu, thì họ theo cái niệm ấy mà đi xuống. Cho nên chúng ta phải tập từ bây giờ, mà lúc nào cũng phải tập.
Nếu như chúng ta đạt được giải thoát hiện tiền thì càng tốt, đâu cần phải đợi đến lúc lâm chung. Đến giờ phút lâm chung mà cái giải thoát chưa nắm trong tay, thì rất là nguy hiểm.

Sơ lược tiểu sử Sư Bà Hải Triều Âm

(Trích từ trang nhà của Chùa Dược Sư ở Phú An, Lâm Đồng, một trong những ngôi chùa do Sư Trưởng Hải Triều Âm thành lập.)

Cố Đại Lão Sư Hải Triều Âm thế danh Nguyễn Thị Ni, sinh năm 1920 tại tỉnh Hà Đông. Thân phụ là một công chức người Pháp, thân mẫu là một y sĩ người Việt.
Thầy sanh trưởng trong gia đình nề nếp gia phong, được huân ướp một đời sống đạo đức, lễ nghi của người châu Á. Kiến thức văn hóa, trí tuệ sâu rộng từ trường học Tây phương.
Khi quy y, ngài được đặt pháp danh Hải Triều Âm. Năm 29 tuổi, Thầy xuất gia ở Hà Nội. Đến năm 1952, vâng lời Hòa Thượng Bổn Sư di cư vào Nam. Nhập chúng tại Ni trường Dược Sư, Gia Định, Sài Gòn.
Vừa lo tu học, vừa hầu mẹ già bị bệnh bán thân, vừa lãnh việc chuyên giảng dạy cho Phật tử. Thầy tinh trì giới luật, nghe kinh Kim Cang lãnh ngộ được tông chỉ niệm Phật. Thầy tu quán Tứ Niệm Xứ để khai tuệ giác tỉnh, sở đắc về bộ kinh Lăng Nghiêm để khai tri kiến Phật.

Năm 1968, Hòa Thượng Thích Thiền Tâm khai mở tông Tịnh Độ ở thôn Phú An, Đức Trọng, Lâm Đồng. Hòa Thượng đã mời Thầy về để cùng một số Ni chúng thành lập xã Hoa Sen, noi gương Tổ Huệ Viễn. Nơi đây, Thầy nhập thất tại tịnh thất Linh Quang, chuyên tâm niệm Phật.

Năm 1970, Hòa Thượng Thích Thanh Từ mở lớp tu thiền ba năm ở Thiền Viện Chơn Không, Vũng Tàu. Thầy là một trong 10 vị khóa đầu được Hòa Thượng chiêu sinh. Thầy theo khóa học thiền để hỗ trợ cho công hạnh tu Tịnh Độ. Sau thời gian tu tập, Thầy ngộ được tôn chỉ “Tri vọng vọng tan, chính là quán hạnh Tứ Niệm Xứ.”

Trước ngày vãng sanh, Thầy cho biết đã nhìn thấy đức A Di Đà, đức Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát cùng các thánh chúng đến đón.

Trưa ngày 31 tháng 7, 2013, Thầy thu thần thị tịch, hoa sen trắng thẳng vãng trời Tây. Thượng thọ 94 tuế thế, 60 hạ lạp.

Viết bình luận đầu tiên

MỚI CẬP NHẬT